Chiếc cầu Ý Hệ (cầu Hiền Lương)

Người bắn nhau nhưng đâu phải bắn nhau, Bắn những ngoại xâm sau lưng nhau đó (TrầnXuânAn)

Archive for Tháng Mười Hai, 2020

ĐIỀU 11 HIỆP ĐỊNH PARIS 27-01-1973

Posted by Trần Xuân An trên 27.12.2020

hidden hit counter

        

ĐIỀU 11 HIỆP ĐỊNH PARIS 27-01-1973


.
        

HOÀ GIẢI DÂN TỘC ĐỂ HOÀ HỢP DÂN TỘC
& BẢO ĐẢM CÁC QUYỀN TỰ DO DÂN CHỦ

Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Viet Nam), thường gọi là: HIỆP ĐỊNH PARIS 27-01-1973

Trích nguyên văn bản tiếng Việt và bản tiếng Anh , ĐIỀU 11:

“… – thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hận và thù địch, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia;
– bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức [lập hội], tự do hoạt động chính trị, tự do tín nguỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm việc, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh…”.

( “… – achieve national reconciliation and concord, end hatred and enmity, prohibit all acts of reprisal and discrimination against individuals or organizations that have collaborated with one side or the other;
– ensure the democratic liberties of the people: personal freedom, freedom of speech, freedom of the press, freedom of meeting, freedom of organization, freedom of political activities, freedom of belief, freedom of movement, freedom of residence, freedom of work, right to property ownership, and right to free enterprise…”).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2729556287318305/

.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: | Leave a Comment »

“CƯỠNG BỨC TÌNH DUYÊN”, CHUYỆN THỜI CHIẾN TRANH

Posted by Trần Xuân An trên 22.12.2020

hidden hit counter

        
“CƯỠNG BỨC TÌNH DUYÊN”,
CHUYỆN THỜI CHIẾN TRANH
Trần Xuân An

người làm ơn, ngầm cưỡng bức lòng người
ân đức ấy ngầm buộc người phải chọn
thoát nhà lao, vào tình duyên không trọn
người thuỷ chung, người chung thuỷ suốt đời

khi tấn tuồng lịch sử đổi màn rồi
người vỡ mộng lại gặp người mộng vỡ
người ngoài lao nhờ kẻ quen giúp đỡ
người trong lao thoát ra, thành vợ chồng

thời chiến tranh cũng đời thường nỗi lòng
rời Việt Minh, người về sau bị bắt
người về trước, theo chính danh, dù nát
dựa quan quyền triều Nguyễn, cứu tình duyên

cứu khỏi tù, lễ cưới tơ hồng thiêng
dùng ân nghĩa trói đời nhau bền chặt
sợi lạt mềm buộc đời nhau, tẩm mật
vậy có là cưỡng bức tình duyên không?

vị đắng chát, trà, cà phê, tỉnh lòng
viết văn chương, nhìn đâu cũng bi kịch
thấy ân nghĩa sáng trong như ngọc bích
mang cạnh sắc vị kỉ cứa đau tim

tuổi sóng tràn và bay bổng cánh chim
gọi đó là tình duyên bị áp lực
cứu khỏi tù, cưới nở hoa tâm phục
khi bạc đầu thấy vậy cũng thương thương

tôi bạc đầu, học lại về yêu đương
thành vợ chồng, có nhiều người chinh phục
lớp sơ cấp hôn nhân và hạnh phúc
chịu cưỡng bức học cho xong, xoá mù *

tình duyên đó như ca dao hát ru *
chuyện Thạch Sanh nhưng Lý Thông không có
cứu thoát hang Đại Bàng, nên chồng vợ
ân hoá tình, đâu chỉ yêu với yêu.

T.X.A.
22 & 23-12-2020
…………..

(*) Chính sách cưỡng bức (cưỡng bách) giáo dục, bắt buộc phải đi học trường phổ thông, ở các nước tiên tiến, ngày xưa. Trong “Chương trình Việt Minh” (Hồ Chí Minh, 1941), có sử dụng cụm từ “cưỡng bức giáo dục”. Ở đây, nói về điều kiện đăng kí kết hôn, buộc phải có chứng chỉ đã học xong lớp hôn nhân, xây dựng gia đình hạnh phúc, “xoá mù” kiến thức về lĩnh vực này. Tác giả cũng chỉ nói đùa, rằng bản thân tuy bạc tóc, vẫn lơ tơ mơ. ~ Trích “Thạch Sanh”, truyện thơ dân gian:
“Đàn kêu: tích tịch tình tang
Tiếng ti, tiếng trúc cung đàn đua vui.
Đàn kêu hơn thiệt mọi lời
Nhân duyên phu phụ số trời đã se”.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2789568704650396/
.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , , , , , | Leave a Comment »

TÔI KÍ TÊN DƯỚI BA (+ HAI) BÀI THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ

Posted by Trần Xuân An trên 15.12.2020

hidden hit counter

        
TÔI KÍ TÊN
DƯỚI BA (+ HAI) BÀI THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT,
KHÔNG ĐỂ KHUYẾT DANH
Trần Xuân An

Thành thật thưa rằng, trong 26 (hai mươi sáu) tập thơ của tôi, tôi chưa từng sáng tác theo thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường nghiêm chỉnh, mặc dù trong một ít truyện Nôm, thơ Lý – Trần cho đến các đại thụ như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, rồi cả các tác gia như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, và cả Quách Tấn thời tiền chiến đều dùng thể thơ này, với niêm luật không phá cách. Tuy vậy, tôi có dịch thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) từ nguyên tác chữ Hán, chủ yếu là chuyển từ bản dịch nghĩa của các vị khác ra dịch vần, thành bản thơ tiếng Việt đúng niêm luật thể thơ ấy. Mỗi bài thơ đều có bản dịch thơ của người biên soạn là tôi, và tôi chú thích (cũng có thể gọi là chú giải) tất cả các bài thơ trong cuốn sách “Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng” (vi tính 2000 & Nxb. Thanh Niên, 2008).

Đây là lần đầu tiên tôi sáng tác (3+2 bài xướng hoạ) theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Đây cũng là lần đầu tiên tôi đưa cái tục tằn, cái tục tĩu, thô tục vào thơ, mặc dù cũng trong phạm trù mĩ học, “mĩ học là đạo đức học tương lai” (M. Gorki), với tinh thần cái đẹp nói chung (nguyên lí mĩ học) đã quy định giới hạn cho cái tục tằn, tục tĩu ấy. Do đó, tôi không khỏi ngần ngại, do dự.

Sau ba ngày tham khảo mặc nhiên quý độc giả, gồm cả những anh chị em quen biết và bạn bè cũ mới, tôi nghĩ rằng mình nên kí tên dưới ba (+ hai) bài thơ xướng hoạ ấy, không nên để khuyết danh như ban đầu.

Tôi cũng thể hiện ý thức:
ĐỪNG KHIÊU DÂM HOÁ
Trần Xuân An

bỏ cái tục tằn trong mĩ học
là xoá Xuân Hương và Tú Xương
Thánh Kinh, cũng đục trắng nhiều đoạn
xin miễn khiêu dâm hoá nõn nường!

(T.X.A. ~~ 13-12-2020 ~~ https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2783076935299573/ )

T.X.A.
15-12-2020

Xem thêm:
https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2784287428511857/

Thơ thất ngôn bát cú Đường luật cổ xưa:
BÀI XƯỚNG (THÁCH HOẠ):
“GIỄU NHẠI THEO TRẦN TẾ XƯƠNG,
VŨ TRỌNG PHỤNG, LỖ TẤN”
Trần Xuân An

hạ thành Hà Nội, nhục sông Hồng
Tây hiếp, sướng rên, phải gậy chồng *
trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
dưới sân, ông kẹc ngỏng đầu rồng! *
chú Hoàng Hải Thuỷ ghi thành chữ
bác Lại Nguyên Ân chép đủ dòng
sa-đích thời nào đau xé thịt *
ai bình “sướng”, “ngỏng”, máu ròng ròng! *

T.X.A.
09-12-2020
……………

(*) Theo hai website của nhà văn Hoàng Hải Thuỷ (bài trả lời phỏng vấn, 2011) và nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân (công trình nghiên cứu văn bản, 2007): Truyện tiếu lâm chính trị trong “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng (“Thị Mịch”, VI , xã hội tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Hà Nội báo, số 24 (17 Juin 1936), tr. 26-30; in thành sách lấy tên sách là “Giông tố”, XIV, xã hội tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Nxb. Văn Thanh, Hà Nội, 1937, tr. 165-174). Chuyện tiếu lâm chính trị “Pháp hiếp dâm, một phân số dân Hà Nội hưởng ứng”, trước 1975, tôi đã nghe nhiều người kể, tôi cũng kể lại cho nhiều người nghe, nhưng không ngờ Vũ Trọng Phụng đã đưa vào “Giông tố” từ năm 1936, 1937. ~ Gần trọn nguyên văn hai câu thơ của Trần Tế Xương (xin xem tiếp chú thích này). ~ Sadisme: bạo dâm gây đau. Theo tôi biết, trong cuốn “Một bông hồng cho văn nghệ”, nhà thơ Nguyên Sa là người đầu tiên phiên âm từ “sadisme” (bạo dâm gây đau) thành “sa-đích”: bọn sa-đích văn nghệ, học thuật… “Bạo dâm gây đau văn nghệ, học thuật” chính xác hơn thuật ngữ “hiếp dâm văn nghệ, học thuật” thường dùng. ~ Trên Facebook riêng, nhà thơ Thạch Quỳ bình chữ “ngỏng” trong bài “Giễu người thi đỗ”, thơ của Trần Tế Xương. Theo Google, nhà giáo Nguyễn Khắc Phước và vài tác giả khác cũng có bàn về chữ đó ở câu thơ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ấy.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2779849132289020/

HOẠ NGUYÊN VẦN, KHẮC LỤC, LUẬT TRẮC & LUẬT BẰNG

HOẠ LẦN 1:
BÀI “GIỄU NHẠI THEO TRẦN TẾ XƯƠNG,
VŨ TRỌNG PHỤNG, LỖ TẤN”
Trần Xuân An

(nguyên vần, khắc lục, luật trắc):

sông Cửu, sông Hương chung nhục Hồng
Tây đè, vùng dậy, đứng bên chồng
bà đầm, trên ghế, ngoi trôn vịt
ông cử, dưới sân, chĩa vảy rồng
“Giông tố”, viết văn, luồn lách chữ *
“Giễu thi”, đánh bút, vuốt xoa dòng *
bạo quyền “cởi trói”, thôi sa-đích *
mềm dẻo, nước triều, lớn lại ròng *.

(nguyên vần, khắc lục, luật bằng):

sông Hương, sông Cửu nhục như Hồng
Tây hiếp, vùng lên, sát cạnh chồng
trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
dưới sân, ông cử chĩa vi rồng
viết trong “Giông tố”, lách từng chữ *
đánh ở “Giễu thi”, xoa mỗi dòng *
sa-đích, đến thời phải “cởi trói” *
dẻo mềm, triều nước, lớn rồi ròng *.

T.X.A.
10-12-2020
………..

(*) “Giông tố”, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, bản 1937. “Giễu người thi đỗ”, thơ Trần Tế Xương (1870-1907). ~ Xã hội Việt Nam, trong đó có văn học, đã một lần được “cởi trói” trong giai đoạn 1936-1939, khi Mặt trận Bình dân của Léon Blum (1872-1950) lên cầm quyền ở chính quốc Pháp. ~ Đây chỉ là bài hoạ nguyên vần trong khuôn khổ chủ đề thuộc loại “chủ hoà” hoặc “minh xã” (ngầm chống Pháp trong vỏ bọc hợp pháp). Nếu có thể, câu cuối nên chăng là thế này: minh xã thăm tù máu ứa ròng (luật trắc); thăm tù đuổi Pháp, máu tươm ròng (luật bằng).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2780596328880967/

HOẠ LẦN 2
BÀI “GIỄU NHẠI THEO TRẦN TẾ XƯƠNG,
VŨ TRỌNG PHỤNG, LỖ TẤN”
Trần Xuân An

(nguyên vần, khắc lục, luật trắc):

Hà Nội Pháp đè, nhục Tản Hồng
Huế truy tội sướng, bị roi chồng
bà đầm trên ghế ngoi trôn vịt
ông cử dưới sân ngỏng trốc rồng
người nuốt thịt người, kinh vạn chữ *
sử bôi máu sử, hãi nghìn dòng *
Lỗ gào địa ngục, Mao thêm ngục *
sa-đích, khoá mồm, máu chảy ròng.

(nguyên vần, khắc lục, luật bằng):

Pháp đè Hà Nội, nhục dòng Hồng
Huế đánh tội rên sướng quá chồng
thẹn chuyện bà đầm ngoi đít vịt
hổ danh ông cử ngỏng mào rồng
thịt người, người nuốt, kinh từng chữ *
máu sử, sử bôi, hãi mỗi dòng *
Lỗ Tấn thét gào Mao địa ngục
khoá mồm, sa-đích, máu tuôn ròng.

T.X.A.
12-12-2020
…………….

(*) Lỗ Tấn, “Nhật kí người điên” (1918).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2782170198723580/

Xem Facebook Trần Xuân An ngày 09-12-2020 – 12-12-2020
.
Xem thêm:
https://txawriter.wordpress.com/2020/08/22/bi-tay-cuong-chiem-ma-cu-ren-len-mot-cach-he-ha-lam/

Ảnh chụp Trần Xuân An, của nhiếp ảnh gia Lê Văn Duy

Posted in Chưa phân loại | Leave a Comment »

TRÍCH TỪ CHƯƠNG XI TIỂU THUYẾT “MÙA HÈ BÊN SÔNG” CỦA TRẦN XUÂN AN, b.1997& b.2003

Posted by Trần Xuân An trên 14.12.2020

hidden hit counter

        
MỘT ĐOẠN TRÍCH TỪ CHƯƠNG XI TIỂU THUYẾT “MÙA HÈ BÊN SÔNG” CỦA TRẦN XUÂN AN, bản 1997 và bản 2003:
(…)
Đêm đêm, nhân vật nghe công an đứng sau phên tôn lủng lỗ chỗ miểng đạn của nhà anh ta, ám thị anh ta, lúc thức, cũng như lúc ngủ. Nội dung ám thị là cô Thơm (gái Bắc) đã sa-đích số phận anh ta, mẹ và chị anh ta cũng đã sa-đích số phận anh ta như vậy. Nhân vật “bị trói” trên giường, thành nạn nhân của sa-đích, gầm rú. Thiên hạ hùa nhau sa-đích, buộc đừng “lên” hoặc “chịu”!
Hiền Lương sượng sùng, gượng mỉm cười.
Hành vẫn tiếp tục kể vở kịch cương viết về vết thương chiến tranh ấy:
– Cả cái ghế cũng đè cứng lên cuộc đời anh ta! – Hành nói nhanh và rõ, rồi chậm rãi -. Như đã kể, y bác sĩ ấy bị ám thị để bôi nhọ rằng, anh ta “vô luân” vì chấp nhận sự cưỡng hiếp lịch sử…
(…)
…………

(*) Theo tôi biết, trong cuốn “Một bông hồng cho văn nghệ”, nhà thơ Nguyên Sa là người đầu tiên phiên âm từ “sadisme” (bạo dâm gây đau) thành “sa-đích”: bọn sa-đích văn nghệ, học thuật (gồm sử học)…

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2783498621924071/

Xem thêm:
BỊ TÂY CƯỠNG CHIẾM MÀ CỨ RÊN LÊN MỘT CÁCH HỂ HẢ LẮM
https://txawriter.wordpress.com/2020/08/22/bi-tay-cuong-chiem-ma-cu-ren-len-mot-cach-he-ha-lam/
.

.

GHI CHÚ CHO TIỂU THUYẾT NÀY VÀ CHÙM THƠ NÀY

.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

Tiễn biệt nhà văn Hoàng Hải Thuỷ (1933-2020)

Posted by Trần Xuân An trên 10.12.2020

hidden hit counter

        

TIỄN BIỆT
NHÀ VĂN HOÀNG HẢI THUỶ (1933-2020)
Trần Xuân An

(Chân dung Hoàng Hải Thuỷ)

ông phỏng tác, “Tình mộng” *
nhiều tuổi ngọc mến yêu
bia mộ ông, người viếng
không bao giờ xanh rêu

cái còn lại, cái đẹp
người đọc luôn cảm hoài
trong hương hoa tưởng nhớ
duy “Tình mộng” không phai

cái tục trong “Giông tố”
cũng mĩ học trần gian
ông học Vũ Trọng Phụng
mộ vẳng cười, lệ chan.

T.X.A.
13:15-17:23, 09-12-2020
……………….

(*) Truyện dài “Tình mộng” của Hoàng Hải Thuỷ do ông phỏng tác từ phim “Vacance romance” (Roman Holiday), 1953. (Theo Wiki, bộ phim được đạo diễn và sản xuất bởi William Wyler, biên kịch bởi John Dighton và Dalton Trumbo. Nữ diễn viên Audrey Hepburn thủ vai chính). Truyện được Nxb. Nguyễn Đình Vượng ấn hành, 1974, sau khi được đăng nhiều kì trên tuần báo Tuổi Ngọc. Ở bài thơ này, tôi chỉ nhắc đến “Tình mộng” và sự công khai thừa nhận của Hoàng Hải Thuỷ về ấn tượng, ảnh hưởng “Giông tố” (Vũ Trọng Phụng) đối với ông, và cụ thể là ông xác nhận truyện tiếu lâm chính trị “Pháp cưỡng chiếm, một số dân Hà Nội rên lên hể hả”, Vũ Trọng Phụng quả thật có đưa vào tiểu thuyết “Giông tố” (1936, 1937), hồi mới lên mười tuổi ông có đọc và mãi nhớ (tạp chí điện tử Gió-O, bài trả lời phỏng vấn, 2011), đúng như nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã khảo cứu văn bản trong công trình đã công bố năm 2007. Chú thích này, về “Giông tố”, chỉ nhằm khảo chứng xuất xứ về mặt văn bản của truyện tiếu lâm chính trị trên, bổ cứu cho xuất xứ dân gian truyền miệng của nó.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2779904235616843/

Xem thêm:
https://txawriter.wordpress.com/2020/08/22/bi-tay-cuong-chiem-ma-cu-ren-len-mot-cach-he-ha-lam/
.
https://txawriter.wordpress.com/2020/12/10/gieu-nhai-theo-tran-te-xuong-vu-trong-phung-hoa-nguyen-van/
.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

GIỄU NHẠI THEO TRẦN TẾ XƯƠNG, VŨ TRỌNG PHỤNG, LỖ TẤN — HOẠ NGUYÊN VẦN

Posted by Trần Xuân An trên 10.12.2020

hidden hit counter

        

BA (+HAI) BÀI THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT DƯỚI ĐÂY LÀ CỦA TÔI (TRẦN XUÂN AN) NHƯNG TÔI KHÔNG GHI TÊN, GỌI LÀ THƠ KHUYẾT DANH

Xem thêm quyểt định mới 15-12-2020:
https://txawriter.wordpress.com/2020/12/15/toi-ki-ten-duoi-ba-bai-tho-that-ngon-bat-cu/

ĐỪNG KHIÊU DÂM HOÁ
Trần Xuân An

bỏ cái tục tằn trong mĩ học
là xoá Xuân Hương và Tú Xương
Thánh Kinh, cũng đục trắng nhiều đoạn
xin miễn khiêu dâm hoá nõn nường!

T.X.A.
13-12-2020

BÀI THÁCH HOẠ:
“GIỄU NHẠI THEO TRẦN TẾ XƯƠNG,
VŨ TRỌNG PHỤNG, LỖ TẤN”
Trần Xuân An

hạ thành Hà Nội, nhục sông Hồng
Tây hiếp, sướng rên, phải gậy chồng *
trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
dưới sân, ông kẹc ngỏng đầu rồng! *
chú Hoàng Hải Thuỷ ghi thành chữ
bác Lại Nguyên Ân chép đủ dòng
sa-đích thời nào đau xé thịt *
ai bình “sướng”, “ngỏng”, máu ròng ròng! *

T.X.A.
09-12-2020
……………

(*) Theo hai website của nhà văn Hoàng Hải Thuỷ (bài trả lời phỏng vấn, 2011) và nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân (công trình nghiên cứu văn bản, 2007): Truyện tiếu lâm chính trị trong “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng (“Thị Mịch”, VI , xã hội tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Hà Nội báo, số 24 (17 Juin 1936), tr. 26-30; in thành sách lấy tên sách là “Giông tố”, XIV, xã hội tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Nxb. Văn Thanh, Hà Nội, 1937, tr. 165-174). ~ Gần trọn nguyên văn hai câu thơ của Trần Tế Xương (xin xem tiếp chú thích này). ~ Sadisme: bạo dâm gây đau. ~ Trên Facebook riêng, nhà thơ Thạch Quỳ bình chữ “ngỏng” trong bài “Giễu người thi đỗ”, thơ của Trần Tế Xương. Theo Google, nhà giáo Nguyễn Khắc Phước và vài tác giả khác cũng có bàn về chữ đó ở câu thơ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ấy.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2779849132289020/

HOẠ NGUYÊN VẦN, KHẮC LỤC, LUẬT TRẮC & LUẬT BẰNG

HOẠ LẦN 1:
BÀI “GIỄU NHẠI THEO TRẦN TẾ XƯƠNG,
VŨ TRỌNG PHỤNG, LỖ TẤN”
Trần Xuân An

(nguyên vần, khắc lục, luật trắc):

sông Cửu, sông Hương chung nhục Hồng
Tây đè, vùng dậy, đứng bên chồng
bà đầm, trên ghế, ngoi trôn vịt
ông cử, dưới sân, chĩa vảy rồng
“Giông tố”, viết văn, luồn lách chữ *
“Giễu thi”, đánh bút, vuốt xoa dòng *
bạo quyền “cởi trói”, thôi sa-đích *
mềm dẻo, nước triều, lớn lại ròng *.

(nguyên vần, khắc lục, luật bằng):

sông Hương, sông Cửu nhục như Hồng
Tây hiếp, vùng lên, sát cạnh chồng
trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
dưới sân, ông cử chĩa vi rồng
viết trong “Giông tố”, lách từng chữ *
đánh ở “Giễu thi”, xoa mỗi dòng *
sa-đích, đến thời phải “cởi trói” *
dẻo mềm, triều nước, lớn rồi ròng *.

T.X.A.
10-12-2020
………..

(*) “Giông tố”, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, bản 1937. “Giễu người thi đỗ”, thơ Trần Tế Xương (1870-1907). ~ Xã hội Việt Nam, trong đó có văn học, đã một lần được “cởi trói” trong giai đoạn 1936-1939, khi Mặt trận Bình dân của Léon Blum (1872-1950) lên cầm quyền ở chính quốc Pháp. ~ Đây chỉ là bài hoạ nguyên vần trong khuôn khổ chủ đề thuộc loại “chủ hoà” hoặc “minh xã” (ngầm chống Pháp trong vỏ bọc hợp pháp). Nếu có thể, câu cuối nên chăng là thế này: minh xã thăm tù máu ứa ròng (luật trắc); thăm tù đuổi Pháp, máu tươm ròng (luật bằng)..

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2780596328880967/
.

.

HOẠ LẦN 2
BÀI “GIỄU NHẠI THEO TRẦN TẾ XƯƠNG,
VŨ TRỌNG PHỤNG, LỖ TẤN”
Trần Xuân An

(nguyên vần, khắc lục, luật trắc):

Hà Nội Pháp đè, nhục Tản Hồng
Huế truy tội sướng, bị roi chồng
bà đầm trên ghế ngoi trôn vịt
ông cử dưới sân ngỏng trốc rồng
người nuốt thịt người, kinh vạn chữ *
sử bôi máu sử, hãi nghìn dòng *
Lỗ gào địa ngục, Mao thêm ngục *
sa-đích, khoá mồm, máu chảy ròng.

(nguyên vần, khắc lục, luật bằng):

Pháp đè Hà Nội, nhục dòng Hồng
Huế đánh tội rên sướng quá chồng
thẹn chuyện bà đầm ngoi đít vịt
hổ danh ông cử ngỏng mào rồng
thịt người, người nuốt, kinh từng chữ *
máu sử, sử bôi, hãi mỗi dòng *
Lỗ Tấn thét gào Mao địa ngục
khoá mồm, sa-đích, máu tuôn ròng.

T.X.A.
12-12-2020
…………….

(*) Lỗ Tấn, “Nhật kí người điên” (1918).

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2782170198723580/

Xem Facebook Trần Xuân An ngày 09-12-2020 – 12-12-2020
.
Xem thêm:
https://txawriter.wordpress.com/2020/08/22/bi-tay-cuong-chiem-ma-cu-ren-len-mot-cach-he-ha-lam/
.

GHI CHÚ CHO TIỂU THUYẾT NÀY VÀ CHÙM THƠ NÀY

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , , , , , | Leave a Comment »

Kính mừng Ngày Nhà giáo 20-11 (2020)

Posted by Trần Xuân An trên 07.12.2020

hidden hit counter

        

Kính mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam. Kính biết ơn thầy cô (cùng với cha mẹ) đã dạy tôi nên người có học và có nhân cách.
https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2763758900564710/

Bài 1:
NHÀ GIÁO PHẢI TỰ HOÀN THIỆN
ĐỂ NGHỀ DẠY HỌC TRỞ THÀNH CAO QUÝ

(ý nghĩ về nghề giáo nói chung của một người từng là sinh viên sư phạm và có dăm năm làm thầy giáo môn ngữ văn Việt)

Động lực phát triển tồn tại thường xuyên ở nhà giáo là ý thức tự điều chỉnh thầm lặng giữa con người phàm tục bình thường và con người mẫu mực về đạo đức, lối sống, và càng thêm tuổi, họ càng mẫu mực hơn. Ví dụ, có lẽ chúng ta đã từng thấy, một nhà giáo trẻ nào đó mới vào nghề có khi quá chén, do tửu lượng không cao, bị ai đó nhiệt tình mời ép, phải bước ngúc ngắc, nghiêng ngả giữa đường, nhưng lúc đã có vài ba tuổi nghề trở lên, nhà giáo biết tự tránh khỏi tình huống ấy, không để trở thành kẻ say rượu khó coi trước mắt học sinh, phụ huynh và thiên hạ. Ví dụ, người làm nghề khác có thể vừa đi bộ dọc đường vừa ăn bánh mì, nhưng nhà giáo thì không được phép như vậy. Xã hội chỉ muốn thấy hình ảnh nhà giáo ung dung ngồi vào bàn, từ tốn ăn cái bánh mì ấy một cách lịch sự. Trong truyền thống nghìn năm và cho đến nay, xã hội luôn đặt nhà giáo ở một mức chuẩn đạo đức, lối sống cao hơn những người thuộc ngành nghề khác. Điều đó trở thành ý thức tự giác điều chỉnh có tính nội tại về nhân cách, biết tích luỹ kinh nghiệm sống để tự bảo vệ nhân cách (và đồng thời nâng cao hơn, có cơ sở thực tế hơn cho cả kiến thức nữa), ở nhà giáo, để họ mỗi tuổi mỗi hoàn thiện hơn, như đã nói ở trên.

T.X.A.
20-11-2020

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2763795597227707/

Bài 2:
THI VÀO TRƯỜNG SƯ PHẠM
PHẢI ĐƯỢC “COI TƯỚNG”

Thuở chuẩn bị thi vào trường đại học sư phạm, tôi nghe người đi trước kể chuyện: Sau môn thi viết (làm bài trên giấy), nếu đỗ thì sẽ vào thi vấn đáp, và thi vấn đáp không chỉ “bị” kiểm tra thêm về kiến thức mà còn được “coi tướng”, tức là giám khảo trực tiếp xem xét tác phong thí sinh có tướng làm thầy giáo, cô giáo không.

Thí sinh có thể đạt điểm cao thi viết, nhưng tướng dáng ba trợn, thiếu đứng đắn là rớt luôn!

Nhân Ngày Nhà giáo, tôi xin kể lại.

T.X.A.
20-11-2020

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2763917900548810/

Bài 3:
NỘI DUNG GIẢNG DẠY: PHI CHÍNH TRỊ CẦM QUYỀN
VÀ ĐẬM ĐẶC CHÍNH TRỊ CẦM QUYỀN

Đúng là nội dung giảng dạy từ mẫu giáo, tiểu học cho đến trung học, đại học trong hệ thống trường học Việt Nam cộng hoà là phi chính trị, hiểu theo nghĩa hẹp, cụ thể là nội dung ấy không phục vụ cho chế độ cầm quyền đương thời thuở bấy giờ. Có lẽ chỉ dưới chế độ Đệ nhất Cộng hoà (1955-1963) mới có ít nhiều đề cao tổng thống Ngô Đình Diệm ở chương trình môn sử lớp đệ nhất (tức lớp 12) và bài hát “Suy tôn Ngô tổng thống”. Sau 1963, không còn chút nào đề cao, suy tôn cá nhân nguyên thủ hay chế độ cầm quyền bấy giờ nữa.

Tôi còn nhớ, chính trị với nghĩa hẹp, cụ thể, có tính lợi dụng học đường nói trên thực sự chỉ có ở những buổi tổ chức tại hội trường cho tỉnh trưởng, cán bộ chiêu hồi, sinh viên sĩ quan đi tuyên truyền thời sự nhất thời, nhưng thỉnh thoảng mà thôi. Trong nội dung giảng dạy, có một bài thuộc môn công dân giáo dục lớp 9 và một bài cũng môn ấy ở lớp 12 đề cập đến “nền kinh tế hoạch định” trong sự so sánh với “nền kinh tế tự do”, tức là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, về mặt kinh tế, nhưng khá khách quan, không phải “địch – ta”.

Tuy vậy, nếu chính trị ở nghĩa rộng, như lòng yêu nước, chống quân xâm lược như chống Trung Hoa phong kiến, chống thực dân Pháp, chống phát xít Nhật, thì dĩ nhiên nhà trường Việt Nam cộng hoà vẫn đậm nét, rõ nét. Cũng có giảng dạy, nhưng không xoáy đi xoáy lại, về Hiệp định Geneve 1954, chia cắt đất nước, và Miền Bắc thuộc Khối Cộng sản xâm lược do Nga Sô đứng đầu, Trung cộng ở vị trí thứ hai…

Nếu xét một cách tinh vi hơn, người ta cũng chỉ thấy môn văn học trong nhà trường Việt Nam cộng hoà không quá đề cao khuynh hướng hiện thực hay khuynh hướng lãng mạn. Nhà trường chế độ cũ xem trọng cả hai. Điều này khác với nhà trường sau 1975, gạt văn học lãng mạn ra khỏi chương trình, chỉ học lướt qua, trong khi đó, đánh giá rất cao khuynh hướng hiện thực.

Nhà trường Việt Nam cộng hoà khác hẳn vấn đề chính trị ở nghĩa hẹp đó, như đã nói trên kia, so với nhà trường Việt Nam dân chủ cộng hoà và cả nước sau 1975. Nhà trường Cách mạng, xã hội chủ nghĩa nước ta xác định công khai là nội dung giảng dạy chuyên môn và giáo dục đạo đức, nhân cách gắn liền với nhiệm vụ chính trị cụ thể, trước mắt và lâu dài: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời bồi dưỡng lí tưởng cộng sản chủ nghĩa, căm thù các chế độ bóc lột, vun đắp lòng kính yêu lãnh tụ, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa… Tinh thần chính trị ấy thấm đẫm trong từng bài học, thể hiện ở mục đích yêu cầu nơi mỗi giáo án.

Đó là nội dung giảng dạy và giáo dục trước Đổi mới.

T.X.A.
20-11-2020

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2764206637186603/

Bài 4:
HOÀN CẢNH XUẤT THÂN, MÔI TRƯỜNG TRƯỞNG THÀNH CỦA NHÀ GIÁO

Có một ý nhỏ thuộc loại cần phải tế nhị, vì nó khá “nhạy cảm”, đó là hoàn cảnh xuất thân hay môi trường trưởng thành đối với người tự chọn hay “bị” chọn vào ngành giáo dục. Tôi không nói đến huyết thống.

Chúng ta biết rằng, ở xã hội Việt Nam từ nghìn xưa, sự kì thị giai cấp không có hoặc chỉ đơn lẻ. Thuở ấy, ai có học, có đỗ đạt dù chỉ tú tài thôi, cũng có thể hành nghề dạy học, bằng cách mở trường tư ở làng thôn, bất kể có thuộc nòi thư hương hay chỉ là cậu chăn trâu có chí dùi mài kinh sử. Thời trước và sau 1975 cũng vậy (đặc biệt sau Ngày Thống nhất ấy, rất ưu tiên cho công nông và các tầng lớp dưới), nhưng hầu hết giáo viên, giáo sư trung học đều phải học trường sư phạm, dù chỉ học khoá cấp tốc (vài ba dịp vào quãng thời gian học sinh nghỉ hè, giáo sinh phải về trường học cho đủ khoá). Vì không phân biệt giai cấp, thành phần, hoàn cảnh riêng, nên có nhiều thầy cô giáo không được may mắn có vốn văn hoá được un đúc từ tấm bé, do đó cách ăn nói, đi đứng, giao tiếp xã hội hơi bỗ bã, suồng sã, “tự nhiên chủ nghĩa”, mặc dù có thể, họ cũng rất thông minh, lanh lẹ và căn bản tri thức thuộc loại đáng nể.

Đây là một mẩu đối thoại trong lớp giữa giáo viên với học sinh trung học:
Thầy: Sao? Không hiểu nổi cách chứng minh định lí này hả? Cái đầu mày là cái đầu cứt hay sao mà dốt thế!
Trò: Dạ, em chưa hiểu được thầy ạ!
Thầy: Thôi, cái đầu cứt thì tay cũng bốc cứt cho luôn! Nghỉ học, về làm nghề bốc cứt!
Trò: (bật khóc tức tưởi).
Bạn có thể tin là có một nhà giáo như thế không? Đến thế đấy!

Khi học trường sư phạm xong, được bổ nhiệm đi dạy học, họ sẽ bị áp lực xã hội tại địa phương và nội quy nhà trường, nơi họ giảng dạy, dần dần điều chỉnh cho họ song song với ý thức tự điều chỉnh tính cách, thói quen sống, cho phù hợp với nghề giáo, với môi trường giáo dục. Nhiều người rất thành công.

Xuất thân từ giai tầng nào, từ hoàn cảnh, môi trường sống nào, mỗi người đều trải qua tuổi nghề, tuổi đời như một quá trình rèn luyện, tu dưỡng liên tục. Và rốt cục, đều trở thành tầng lớp tinh hoa, trí thức quý tộc mới (chứ không thể xoá giai tầng, đồng nhất hoá mọi hoàn cảnh, mọi môi trường sống trong xã hội được!). Cơ cấu xã hội như trong các chế độ trước, chỉ có con người này thay thế con người kia!

T.X.A.
21-11-2020

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2764586210481979/

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

HOÀ GIẢI DÂN TỘC PHẢI CỤ THỂ, KHÔNG NÊN SUÔNG RỖNG, ĐẦU MÔI CHÓT LƯỠI

Posted by Trần Xuân An trên 05.12.2020

hidden hit counter

        

HOÀ GIẢI, ĐÚNG NGHĨA CỦA TỪ… & KIẾN NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ…

Hai bài đầu tiên tôi đăng trên Facebook (06-03-2014), đến nay (05-12-2020), tôi đăng lại để xem như “tổng kết” (dĩ nhiên bài mở đầu chỉ có tính chất khai đề, sơ khởi, như đường cày thứ nhất, chưa phải là cả cánh đồng), sau khi đã hoàn tất 13 đầu sách đền bù cho tiểu thuyết “Mùa hè bên sông” mà tôi đã viết và công bố, bản 1997-1998 và bản 2003:

Bài 1
HOÀ GIẢI, ĐÚNG NGHĨA CỦA TỪ:
PHẪU THUẬT LỊCH SỬ
ĐỂ CHỮA LÀNH VẾT THƯƠNG LỊCH SỬ CẦU HIỀN LƯƠNG 1954-1975

I. XIN PHÉP ĐƯỢC HỎI CHUYỆN CÁC ANH, CHỊ VÀ CÁC BẠN:

1) Câu hỏi 1:

Nếu tôi nhớ không lầm, thì có một tác giả kinh điển cho rằng: Trong bất kì cuộc chiến tranh nào, chỉ có thể một bên chính nghĩa và một bên phi nghĩa hoặc cả hai đều phi nghĩa, chứ không có trường hợp thứ ba là cả hai bên đều chính nghĩa. Tuy vậy, có người cho rằng, cuộc chiến tại Việt Nam chúng ta, tiêu biểu và tập trung mâu thuẫn nhất là giai đoạn 1954-1975, Miền Bắc và Miền Nam đều chính nghĩa. Các anh, chị và các bạn nghĩ thế nào?

2) Câu hỏi 2:

Sau 30-04-1975, có người đã 70 tuổi vẫn bị đi học tập cải tạo, vì ông ấy dám tuyên bố, ông không thể theo phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (vì Nhật Bản bấy giờ là nước đã và đang xâm lược bán đảo Triều Tiên, và vì Phan Bội Châu thoả hiệp với Thiên Chúa giáo), không theo Phan Châu Trinh (vì Phan Châu Trinh chủ yếu là phê phán chế độ quân chủ, cải cách theo hướng cộng hoà, tuy không vọng ngoại nhưng không quyết đánh Pháp), không theo Quốc Dân đảng (vì đã bị thực dân Pháp bóp chết từ trứng nước với cuộc hành quyết Nguyễn Thái Học, và VN.QDĐ. về sau thân QDĐ. Trung Hoa), đặc biệt là ông ta không theo Đảng lãnh đạo phong trào Xô-viết Nghệ-Tĩnh 1930-1931 (vì phong trào ấy rõ rệt là theo đế quốc Nga kiểu mới). Chính vế cuối của lời tuyên bố ấy mà ông ta bị cải tạo tập trung.

Theo các anh, chị, các bạn, ông ta nói có lí không và ông ta bị cải tạo tập trung có oan không?

3) Câu hỏi 3:

Từ 1997-1998 đến 2005, sau vài ba lần tôi công bố một cuốn tiểu thuyết về vết thương lịch sử cầu Hiền Lương (các bản 1997-1998 & 2003), tôi nhận được những phản hồi khá gay gắt, nhất là về một chi tiết sử học.

Đó là vai trò, chữ kí của phía Pháp ở Hiệp định (HĐ.) Genève 1954 và vai trò, chữ kí phía Mỹ ở Hiệp định Paris 1973; trong hai văn bản ấy không có chữ kí của Liên Xô cũng như Trung Quốc. Tôi cho rằng, như vậy là hai cuộc chiến tranh 1946-1954 và 1954-1975 chủ yếu chỉ là chiến tranh Pháp – Việt Nam dân chủ cộng hoà (VNDCCH.) và chiến tranh Mỹ – VNDCCH., còn Quốc gia Việt Nam (QGVN., chính phủ Bảo Đại, không chịu kí, HĐ. 1954), Việt Nam cộng hoà (VNCH., HĐ. 1973) và Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTGPMNVN., HĐ. 1973) chỉ là thứ yếu. Rõ ràng như vậy, QGVN. và VNCH. chỉ là nguỵ mà thôi. Tôi chỉ chứng minh như thế, nhưng có người vẫn không nhất trí. Họ cho rằng, nhiều văn kiện, rõ nhất ở Đại hội Đảng lần II (02-1951), đã ghi chủ trương thực hiện, noi theo “chủ nghĩa nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh” [1]; báo chí, văn học – nghệ thuật, sách giáo khoa ở Miền Bắc không ngớt và thường xuyên ngày đêm “bồi dưỡng lòng kính yêu các lãnh tụ” cường quốc Nga Sô, Trung Cộng còn sống, còn nắm chức quyền như Staline, Mao Trạch Đông. Họ bảo, thế thì còn gấp mười lần chữ kí của phía Pháp, phía Mỹ ở HĐ.Genève 1954, HĐ. Paris 1973. Ở Miền Nam không có sự thể mang tính chất thuộc địa kiểu cũ trong các văn kiện nhà nước, trong báo chí, văn nghệ và sách giáo khoa như ở Miền Bắc. Họ kết luận: Miền Bắc là thuộc địa vừa kiểu cũ vừa kiểu mới của Nga Sô và một giai đoạn dài là của Trung Cộng (Mao “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” – Maxwell Taylor [2]).

Phản ứng đó khiến tôi cảm thấy khó xử, vì không thể trung thực đến cùng (nhà văn nào cũng thế, trung thực, sẽ bị tù tội, cấm xuất bản, đăng báo…).

Theo các anh, chị và các bạn, phản hồi của một số người như trên có đúng không, và bản thân tôi phải làm sao đây? Có nên dũng cảm nhất trí, tiếp thu phản hồi kia cho các thế hệ trẻ Miền Nam sau này đỡ bị anh em đồng bào Miền Bắc bắt nạt không?

Chú thích:
[1] Điều lệ Đảng (Đại hội Đảng lần II, 1951): “Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Ǎngghen – Lênin – Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”.
[2] Trích theo: Bộ Ngoại giao CHXHCNVN., “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua”, NXB. Sự Thật, 10-1979.

4) Câu hỏi 3b:

Thưa các anh, chị và các bạn, đây là câu hỏi 3b (bổ sung câu hỏi 3).

Tôi có tìm thấy một bài viết in trên báo giấy tại nước ta gần đây về nhà văn Sơn Tùng. Trong đó có chi tiết như sau:

“… năm 1951 có chuyện đưa “tư tưởng Mao” vào điều lệ Đảng, ghi là “Học thuyết Mác Lênin, chiến lược Stalin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh”…

Và dưới đây, thêm một tư liệu nữa. Xin nói rõ là tôi chưa được tận mắt tiếp cận văn bản gốc của tư liệu sau:

“Ngày 29/6/1955 […]… Khi các đồng chí lãnh đạo nhà trường [ở Trung Quốc – chua thêm] mang quyển sổ ghi lưu niệm đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh vui vẻ cầm bút ghi dòng chữ Hán: “Học tập và giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Mao Trạch Đông là phương châm duy nhất của ngành giáo dục Trung Quốc và Việt Nam””.

Mặc dù chưa thấy tận mắt văn bản gốc, nhưng chúng ta cũng có thể thấy được sự thể trên trong thực tế nhà trường tại Miền Bắc, tối thiểu là qua các sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy trước 1975, vẫn còn được sử dụng tại Miền Nam sau Ngày Thống nhất.

Các anh, chị và các bạn nghĩ như thế nào? Xin vui lòng đọc lại câu hỏi 3 và trả lời bổ sung.

Chú thích:
[1] PV. báo Văn nghệ [viết tại Hà Nội, 15-3-2009], bài “Nhà văn Sơn Tùng: “Nếu không làm được phúc thì đừng gieo hoạ””. Xem tại:
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=6946
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:bUFaEOuDR9cJ:phongdiep.net/default.asp%3Faction%3Darticle%26ID%3D6946+&
cd=7&hl=vi&ct=clnk&gl=vn
[2] Đặng Quang Huy, “CHUYỆN KỂ BÁC HỒ VỚI THIẾU NIÊN, NHI ĐỒNG”, Website KDT.CT.HCM. tại PCT.. Xem tại:
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/Article/Detail/299
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:LTo6CbD2CzQJ:ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/Article/Detail/299+&cd=28&hl=vi&ct=clnk&gl=vn

5) Câu hỏi 3c:

Xin các anh chi, các bạn suy nghĩ tiếp. Có vài ba khía cạnh cần bàn luận thêm (bổ sung vào hai câu hỏi 3 và 3b):

a. – Lợi dụng được xương máu của Miền Bắc Việt Nam và bộ phận cách mạng Miền Nam (trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam), mà bản thân Trung Quốc không đổ nhiều máu, nhưng Trung Quốc vẫn buộc được Miền Bắc chịu nô lệ hoá về tư tưởng và lệ thuộc quân sự, kinh tế, thì Trung Quốc quá có lợi và quá thâm độc. Trong Khi đó, ở Miền Nam, Mỹ không nô lệ hoá được nhân dân, đặc biệt là trí thức, sinh viên học sinh Miền Nam.

b. – Thông cáo chung Mỹ – Trung, kí ngày 27 tháng 2 năm 1972 tại Thượng Hải chính là sự thoả thuận giữa Mỹ và Trung Quốc về chiến tranh Việt Nam (cùng với vấn đề khác như về Đài Loan…). Đó là nền tảng, là then chốt để đi đến việc kí kết Hiệp định Paris 1973. Như vậy thực chất Hiệp định Paris cũng là kết quả thoả thuận giữa Mỹ và Trung Quốc vào tháng 02-1972 mà thôi. Trung Quốc không kí vào Hiệp định Paris 1973 nhưng thực chất là đã kí rồi, trước đó, vào Thông cáo Thượng Hải 1972.

c. – Vai trò cố vấn và đằng sau nhưng chủ đạo của Trung Quốc ở Hiệp định Genève 1954 cũng từa tựa như thế.

Đó là những vấn đề bật lên và âm ỉ trong xã hội mấy thập niên qua, rồi vẫn còn tiếp tục như vấn nạn.

Các anh, các chị và các bạn nghĩ như thế nào về 03 khía cạnh trên? Xin vui lòng trả lời cho mọi người cùng rõ.

6) Câu hỏi 4:

Đây là câu hỏi 4. Nhưng vì câu hỏi 3 có đến 3 câu hỏi: 3, 3b, 3c, nên cũng có thể gọi đây là câu hỏi 6. Và đây cũng là câu hỏi cuối.

Tựu trung, tất cả các câu hỏi trên đều nhằm bàn đến các khía cạnh của vấn đề lớn, bao trùm: chính danh và chính nghĩa. Cụ thể hơn, Miền Bắc có chính danh không và có chính nghĩa không? Miền Nam có chính danh và có chính nghĩa không? Và phải chăng tính chính danh, chính nghĩa này là nhân tố cực kì quan trọng đối với người Việt, nên cũng là nguyên nhân nội tại gây ra vết thương lịch sử cầu Hiền Lương (1954-1975), bên cạnh nguyên nhân ngoại tại là Việt Nam trở thành điểm nóng của Cuộc Chiến tranh lạnh giữa Hai Khối trên thế giới?

a) Trong bối cảnh lịch sử sau khi Triều Nguyễn hoàn toàn mất nước và phong trào Cần vương thực sự chấm dứt, Hoàng Hoa Thám sắp bước vào giai đoạn cuối (rồi cũng bị sát hại vào năm 1913), thì các phong trào cứu nước hầu như đều tìm cách dựa vào ngoại bang không phải thực dân Pháp (như Nhật, Trung Hoa Quốc dân đảng, Nga Sô, Trung quốc cộng sản) và cả chính thực dân Pháp với hi vọng cải cách, chấn hưng dân tộc (như Phan Châu Trinh…). Do đó, không ít người không thể tham gia các phong trào yêu nước, cứu nước đó, mà tìm kiếm tính chính danh ở ngai vàng mục nát, sụp đổ và lại được dựng lên với vua bù nhìn Bảo Đại (từ 1946 với danh nghĩa sau đó là Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp), bởi vì dù sao Triều Nguyễn cũng là chính danh. Với những người thuộc Quốc gia Việt Nam, họ dựa vào thực dân Pháp và sau đó, dựa vào đế quốc Mỹ để chống cộng sản vô thần theo Staline (Nga Sô), theo Mao Trạch Đông (Trung Quốc). Không ít nước hồi đó cùng hoàn cảnh bị mất nước đã đi theo con đường này để giành lại độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ và không cộng sản. Tuy nhiên, ở Miền Nam Việt Nam, sau 1954, Ngô Đình Diệm (“tả đạo” tại Việt Nam) đã cướp chính quyền bằng cuộc trưng cầu dân ý giả hiệu với sự hỗ trợ của Mỹ và Thiên Chúa giáo (Vatican). Tính chính danh của Việt Nam Cộng hoà vì thế cũng đã bị đánh mất. Do đó, cuộc đảo chính lật đổ Diệm diễn ra, để tạo ra tính chính danh mới… Trải qua dăm chính phủ phi Thiên Chúa giáo, rồi cuối cùng vẫn là Nguyễn Văn Thiệu (vẫn thuộc Đệ nhị Cộng hoà), một tín đồ Thiên Chúa giáo, mặc dù dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu, giáo hội Thiên Chúa giáo không có nhiều quyền lực đến mức độc tôn như dưới chế độ Ngô Đình Diệm (Đệ nhất Cộng hoà).

b) Đối với Miền Bắc, chính quyền Miền Nam vẫn xem Đảng Cộng sản Việt Nam, từ 1930 đến 1975 (với các tên khác nhau qua nhiều thời kì) chỉ là tay sai của Nga Sô (Staline), Trung Cộng (Mao), nên không thừa nhận tính chính danh, cho dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần đánh đuổi phát-xít Nhật (1945), làm nên chiến thắng Điện Biên phủ (1954). Đồng thời, Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam, theo nhận thức của họ, chỉ là tay sai của Miền Bắc, nên bị gọi là “Cộng phỉ”, “Phiến quân cộng sản”, “bọn cộng sản vô thần”… Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam, nhìn chung, trong quá trình lịch sử của lực lượng chính trị này, có công lao to lớn là đã đánh đuổi được thực dân Pháp, góp phần đánh đuổi phát-xít Nhật, đánh đuổi đế quốc Mỹ và đặc biệt là phản tỉnh, đánh đuổi cả Trung Quốc cộng sản (1979), tuy còn để mất Hoàng Sa, một số đảo bãi ở Trường Sa và đất đai biên giới phía Bắc… Đó là những sự thật lịch sử không thể không biết hay không thấy và cũng không thể phủ nhận.

Xin các anh, các chị và các bạn trả lời giúp câu hỏi vừa nêu ra: Miền Bắc có chính danh không và có chính nghĩa không? Miền Nam có chính danh và có chính nghĩa không? Và phải chăng tính chính danh, chính nghĩa này là nhân tố cực kì quan trọng đối với người Việt, nên cũng là nguyên nhân nội tại gây ra vết thương lịch sử cầu Hiền Lương (1954-1975), bên cạnh nguyên nhân ngoại tại là Việt Nam trở thành điểm nóng của Cuộc Chiến tranh lạnh giữa Hai Khối trên thế giới?

II. GỬI CÁC BẠN GIÁO VIÊN GỐC MIỀN NAM CÙNG LỨA TUỔI

Lứa tuổi chúng ta (sinh năm 1956, kể thêm trên dưới ít năm), ở Miền Nam, có cái may mắn là trước Ngày Thống nhất (30-4-1975) được tha hồ chống Pháp, chống Nhật, chống Mỹ trong sinh hoạt báo chí và chống Mỹ cũng như chế độ cũ bằng hành vi công khai (biểu tình, lên diễn đàn…), đồng thời chống cả Tàu xâm lược Hoàng Sa; sau Ngày Thống nhất lại không phải chịu đựng một lời sùng bái “Bác Mao” (Mao Trạch Đông); rồi đến lúc sắp tốt nghiệp đại học (#8-1978), được tha hồ chống Trung Quốc (rộng khắp từ 12-1978), nhất là vào năm đầu tiên dạy học (02-1979), được mạnh mẽ chống Trung Quốc bành trướng, xâm lược bằng thơ, bằng bài giảng văn… Đến khi Liên Xô sụp đổ, lại được vui mừng cùng các nước thuộc Cộng hoà Liên bang Xô-viết được thoát ách “liên bang”, được độc lập, cho dù họ có còn xã hội chủ nghĩa hay không thì tuỳ. Nói như thế để thấy được cái may mắn ấy ngoài một ít ý thức tự thân, bản sắc dân tộc tự nhiên của mỗi người còn do bối cảnh, bước ngoặt lịch sử chung… Nói như thế để bày tỏ sự mong mỏi các bạn giáo viên gốc Miền Nam Việt Nam vẫn kiên trì bám lớp, bám trường, để cùng học sinh tự đổi mới, ngày mỗi độc lập, tự do, dân chủ hơn (biết ngoại giao, nhưng không nịnh hót một nước ngoại bang nào, nhất là các cường quốc thường lăm le chi phối nước ta) và ngày mỗi khoa học, nhân văn hơn…

T.X.A.
03 – 06-4 HB14 (2014)

Bài 2
KIẾN NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ THỰC HIỆN HÒA GIẢI DÂN TỘC

1) KIẾN NGHỊ BIỆN PHÁP 1:

Nếu đã nhất trí như sáu khía cạnh vấn đề hòa giải dân tộc đã nêu, thì cần nhanh chóng thực hiện chỉnh sửa lí lịch bản thân và gia đình (thường gọi là “sơ yếu lí lịch”) cho nhân dân Miền Nam, một ít ở Miền Bắc. Tất cả những ai đã từng ghi vào lí lịch là có thân nhân thuộc ba đời (có thể cả bản thân) là quân nhân, công chức chế độ cũ (thường buộc phải ghi là “ngụy quân”, “ngụy quyền” hoặc thậm chí là “lính hay công chức thuộc Pháp”, “lính hay công chức thuộc Mỹ”…) thì nhất loạt đều cần chỉnh sửa lại, đúng theo cụm từ là: “quân nhân chế độ cũ (cũng chính nghĩa)” hay “công chức chế độ cũ (cũng chính nghĩa)”. Xin lưu ý: có ba chữ “cũng chính nghĩa” trong ngoặc đơn, đằng sau năm chữ “quân nhân chế độ cũ” hay “công chức chế độ cũ”. Từ ngữ phải giản dị, rõ nghĩa, ai cũng hiểu được như thế. Và dĩ nhiên phải Công an phải chứng thực với khuôn dấu, chữ kí, để chứng tỏ với mọi người dân cũng như với quốc tế hiện tại và muôn đời sau, rằng Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN.VN. đã thực sự thừa nhận tính chính nghĩa của chế độ Việt Nam cộng hòa (chế độ cũ) là cũng chính nghĩa. Đây là biện pháp thật sự cụ thể, “làm cho tận nơi thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu” (Nguyễn Trãi), không những có ý nghĩa, tác dụng trong hiện tại, mà muôn vạn đời sau, đối với dân Miền Nam, một số dân Miền Bắc có dính líu, và đối với cả dân tộc Việt Nam.

Các anh, các chị và các bạn nghĩ như thế nào? Nếu nhất trí như thế, thì phải chăng báo chí cần phải lên tiếng để Đảng, Nhà nước, Quốc hội nước ta thấu hiểu và xét duyệt? Nếu báo chí vẫn im tiếng thì nhân dân Miền Nam phải viết bản kiến nghị kính gửi lên các cơ quan cao nhất như đã nêu, hay cần biểu tình ôn hòa, trật tự với các biểu ngữ cụ thể?
(còn tiếp)

T.X.A.
08:00, 15-04 HB14 (2014)
.
2) KIẾN NGHỊ BIỆN PHÁP 2:

Trọn vẹn câu văn, Nguyễn Trãi (1380-1442) viết để trình bày về quan điểm chế định lễ nhạc: “… làm sao cho tận nơi thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu; đó là gốc của nhạc”. Lễ nhạc, mở rộng ra là văn hoá, văn nghệ, gồm cả giáo dục, cụ thể hơn là sử học, văn học nhà trường… Gốc, chính là cơ sở thực tiễn, hiện thực xã hội… Vận dụng trong giai đoạn hậu chiến hiện nay, 2014… (gần tròn 39 năm, kể từ 30-04-1975), nếu toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chúng ta đã nhất trí minh oan cho chế độ cũ Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà, người Miền Nam (1954-1975) và họ hàng tông tộc trong Nam của một số dân Miền Bắc là “cũng chính nghĩa” (yêu nước, chống xâm lược, bành trướng Trung Quốc và chống chiến lược nô lệ hoá tư tưởng của Nga Sô), thì sử học và văn chương phải thể hiện đúng theo tinh thần đó. Sự minh oan ấy xuất phát từ cơ sở sự thật lịch sử chứ không phải từ ý muốn chủ quan. Sử học có thể chỉ ra nhân vật này, nhân vật kia là không tốt, nhưng cả chế độ với hàng triệu quân nhân, công chức thì chắc chắn không phải vậy. Người Việt, cho dù gốc Bắc hay gốc Nam nói chung vẫn có chung một đặc tính dân tộc là yêu nước. Đặc biệt, trong văn chương, chúng ta chấp nhận đa dạng về tính cách nhân vật, nhưng không chấp nhận bôi xấu hình tượng quân nhân, công chức chế độ cũ tại Miền Nam trước đây là bán nước, tay sai của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ.

Và dĩ nhiên, sử học cũng như văn chương phải khẳng định chế độ Việt Nam dân chủ cộng hoà (1954-1975) và Mặt trận giải phóng Miền Nam Việt Nam (1960-1975) là chính nghĩa, yêu nước, chống ngoại xâm là Pháp, Nhật, Mỹ…

Miền Nam và Miền Bắc chỉ ngộ nhận (chiến tranh, bắn giết) nhau do bối cảnh lịch sử thế giới trong thời Chiến tranh lạnh của Hai Khối mà thôi.

Nếu văn hoá, văn nghệ cùng cung một cốt lõi, một tinh thần chung như vậy, thì đúng là thực hiện theo tư tưởng của Nguyễn Trãi trong thời đại của chúng ta: “làm sao cho tận nơi thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu”…

Thưa các anh, các chị và các bạn, ý kiến của quý anh chị và bạn như thế nào?
(còn tiếp)

T.X.A.
Chiều 15-04 HB14

3) KIẾN NGHỊ BIỆN PHÁP 3 (tiếp theo & hết):

Việc chỉnh sửa từ ngữ ở lí lịch hàng chục triệu người tại Miền Nam và một số ít tại Miền Bắc như đã nêu ở kiến nghị 1, đồng thời với việc minh oan trong sử học, văn chương, nghệ thuật, giáo dục cho Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà, rằng, hai thực thể chính trị đã thuộc về quá khứ ấy, là “cũng chính nghĩa”, vì đã chống Trung cộng và đã chống Nga Sô, như kiến nghị 2, đó là hai công việc phải làm để thực hiện hoà giải, đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, và cho muôn đời mai sau.

Trung Quốc, toàn thế giới đều rõ bản chất qua diễn trình xâm lược Hoàng Sa, Biển Đông, bành trướng Đại Hán; Nga Sô, toàn thế giới đều rõ, đó cũng là đế quốc đỏ, bành trướng kiểu “liên bang” và nô lệ hoá tư tưởng, mà chính Liên Xô cũng tự nhận thức ra và cũng tự tan rã, nhân dân 15 nước thuộc liên bang đó cũng vui mừng được độc lập. Vậy thì, việc khẳng định tính chính nghĩa cho Quốc gia Việt Nam và Việt Nam cộng hoà chỉ là khẳng định sự thật lịch sử hiển nhiên. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và Quốc hội nước ta không thể phủ nhận điều đó, cũng không thể tiếp tục vu oan cho hai thực thể chính trị đã thuộc về quá khứ ấy là bán nước, tay sai thực dân, đế quốc. Vả lại, làm sao khối đoàn kết dân tộc có thể vững chắc nếu Đảng, Nhà nước, Quốc hội cứ mãi vu oan nghiệt ngã bằng các “bản án lí lịch chủ nghĩa” đối với hàng chục triệu con người trong nhân dân Miền Nam?

Tiếp tục tính cụ thể, kiến nghị 3 này mong hãy biến ngày 30-04 mỗi năm thành Ngày Thống nhất và Minh oan lịch sử, để hai miền Nam – Bắc đều vui mừng chào đón ngày đó, không còn “triệu người vui”, “triệu người buồn” như cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận định. Xin viết in hoa: NGÀY THỐNG NHẤT & MINH OAN LỊCH SỬ.

Như vậy, chỉnh sửa từ ngữ ở lí lịch là cụ thể; minh oan trong sử học, văn chương, nghệ thuật và giáo dục là cụ thể; định danh ngày 30-04 lại là cụ thể. Phải là những việc cụ thể, rộng khắp và thường xuyên, chứ hoà giải dân tộc, đoàn kết dân tộc không phải chỉ là chiêu bài, đầu môi chót lưỡi như từ trước đến nay, khiến nhân dân đã mất niềm tin đến mức dưới số không, đối với Đảng, Nhà nước, Quốc hội nước ta.

T.X.A.
#08:30 — 09:55, 17-04 HB14 (2014)

Link bài 1:
https://txawriter.wordpress.com/2014/04/06/hoa-giai-vet-thuong-cau-hien-luong-1954-1975/

Link bài 2:
https://txawriter.wordpress.com/2014/04/15/kien-nghi-cac-bien-phap-cu-the-de-thuc-hien-hoa-giai-dan-toc/

Cũng có thể đọc tại đây (có tư liệu tham khảo):

Trần Xuân An — HOÀ GIẢI, ĐÚNG NGHĨA CỦA TỪ: PHẪU THUẬT LỊCH SỬ ĐỂ CHỮA LÀNH VẾT THƯƠNG LỊCH SỬ CẦU HIỀN LƯƠNG 1954-1975

http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/txa-hoa-giai-vet-thuong-cau-hien-luong-1954-1975

https://sites.google.com/site/tranxuananwriter/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/txa-hoa-giai-vet-thuong-cau-hien-luong-1954-1975

Trần Xuân An — (đề xuất) — KIẾN NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ ĐỂ THỰC HIỆN HOÀ GIẢI DÂN TỘC – 15-04 HB 14

http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/txa-kien-nghi-bien-phap-hoa-giai-dan-toc

https://sites.google.com/site/tranxuananwriter/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/txa-kien-nghi-bien-phap-hoa-giai-dan-toc

& MỜI XEM TẠI TRANG NÀY:
https://txawriter.wordpress.com/hoa-giai-dan-toc/
.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

Bài nối vào tập thơ 26/48: TRÚT GÁNH NỢ CẦM BÚT

Posted by Trần Xuân An trên 02.12.2020

hidden hit counter

        
Bài nối vào “Tổ quốc ơi…”
TRÚT GÁNH NỢ CẦM BÚT
Trần Xuân An

cất khỏi vai gánh nợ người cầm bút
Đỏ thắng Vàng, mười chín tuổi chưa qua *
Đỏ bắn Đỏ, cũng học trò, dạy học *
thơ máu xương, góp vào sử rõ ra!

hai gánh nợ, thiếu khuyết và nghiêng lệch
viết đền bù, đầy đủ và thẳng ngay
thành gánh sách, hai vai ta nhẹ nhõm
tuổi xế trưa, nắng trăm năm còn dài

nhưng đâu phải tính tẩy trần, gác bút
chỉ xong thêm Chiến tranh Lạnh thuở nào *
vẫn viết về cõi khổ đau, hạnh phúc
thôi đạn bom, nỗi xương trắng, máu đào!

không phải tránh nội chiến Chiến tranh Lạnh
đã “Chín đoá…”“Mùa hè bên sông” *
chung hộp sách mười bốn cuốn treo mạng
chưa sách giấy. Nhẹ vai. Chưa yên lòng.

T.X.A.
trước 10:30, 23-11-2020
…………….

(*) Thời “Chiến tranh Vàng – Đỏ”: 1945-1975; thời “Chiến tranh Đỏ – Đỏ”: 1975-1989/1991. Đó là hai giai đoạn “Chiến tranh Lạnh” (1945-1991) ở nước ta và cả Đông Dương. ~ “Chín đoá đỏ vàng lam” (thơ, truyện, 13 đầu sách) và “Mùa hè bên sông” (tiểu thuyết, 01 đầu sách), cùng chung một đề tài hoà giải dân tộc thời hậu chiến, của tác giả Trần Xuân An. ~ Bài thơ trên đây được viết sau khi đã đóng lại tập thơ “Tổ quốc ơi…”, đã tạo thành tệp sách PDF với 41 bài thơ + 01 bài thơ vốn ở tập thơ trước.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2763249540615646/
.

Posted in Chưa phân loại | Leave a Comment »