Chiếc cầu Ý Hệ (cầu Hiền Lương)

Người bắn nhau nhưng đâu phải bắn nhau, Bắn những ngoại xâm sau lưng nhau đó (TrầnXuânAn)

Archive for Tháng Mười Một, 2019

HAI BÀI THƠ & trích tiểu thuyết “Ngôi trường…” về CHỮ QUỐC NGỮ ABC

Posted by Trần Xuân An trên 30.11.2019

hidden hit counter

.
        

Trích tiểu thuyết “NGÔI TRƯỜNG THÁNG GIÊNG” của Trần Xuân An
(bản vi tính, 1998; Nxb. Thanh Niên, 2003)
VỀ CHỮ QUỐC NGỮ ABC:

http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/ngoi-truong-thang-gieng/tep-4
[…]
16

Lộc Biếc ngồi đối diện với ông Binh. Trên bàn tiếp khách hình chữ nhật, giữa họ là cây đèn dầu cỡ trung, được vặn bấc sáng, hai cuốn sách và hai cuốn vở. Lộc Biếc giảng bài vừa đủ để ông Binh nghe. Ông lặng lẽ nhìn xuống mặt bàn, thỉnh thoảng lại ghi chép vào vở. Trong những quãng im lặng, Lộc Biếc nghe tiếng đọc bài ê a của mấy đứa cháu nội ông Binh dưới nhà vọng lên.

– Thưa bác, đây là bài đầu tiên của chương trình lớp mười. Từ nãy đến giờ, cháu nói chuyện như thế có nhanh quá không?– Lộc Biếc cố tránh hai chữ “giảng bài” –.

– Không, như vậy là vừa. Cô giáo cứ tiếp tục cho.

Lộc Biếc lại trình bày tiếp. Trước khi vào bài học, cô đã đề nghị ông Binh chia vở ra làm hai, không kể lề vốn là một đường kẻ đỏ mờ. Một bên, cô đọc để ông ghi dàn ý của bài giảng. Không phải đọc hết, ghi hết một lần, cô vừa giảng vừa nhắc ông ghi các tiêu đề, các ý chính. Một bên khác, cô theo dõi cách ghi thêm những gì ông lưu ý trong bài giảng của cô. Lộc Biếc muốn kiểm tra một cách tế nhị sự tiếp thu của ông Binh, xem ông nhạy cảm với điều gì nhất, để từ đó cô rút kinh nghiệm, dạy sát hợp với trình độ và tuổi tác của ông hơn. Cô cảm thấy mừng vì sẽ không vất vả lắm cho cả hai người. Kiểu chữ của thế hệ ông Binh khá rõ nét, Lộc Biếc đọc ngược vẫn đễ dàng.

– Thưa bác, như cháu đã trình bày, chữ quốc ngữ với hai mươi bốn chữ cái La Tinh có thuận lợi hơn chữ Nôm của ông cha mình không?

Ông Binh gật đầu:

– Rất thuận lợi. Cố gắng một tuần là đọc thông viết thạo

– So với các nước láng giềng, dân tộc mình hơi … lạ đấy.– Lộc Biếc mỉm cười –. Nhật, Nam – Bắc Triều Tiên, Thái Lan, Căm-pu-chia … vẫn giữ “chữ Nôm” của dân tộc họ. Lào cũng thế … Bác nghĩ sao ạ?

Trầm ngâm một lát, ông Binh hơi ấp úng:

– Cũng lạ thật. Chẳng lẽ …

– Trong quá trình bị thực dân, một số nước không sử dụng cả tiếng nói lẫn văn tự của nước họ trong hành chính, ngay trong giao dịch hàng ngày nữa, như Ấn Độ, Phi-líp-pin … Họ dùng tiếng Anh!

Ông Binh buông bút, bóp tay vào trán:

– Ấn Độ là nước cực kì văn minh kia mà!

– Vâng. Văn minh Ấn Độ lan tỏa khá rộng, cũng như La Mã, Ai Cập, Hy Lạp, Do Thái ở châu Âu, châu Phi và Trung cận Đông. Cũng như Trung Hoa, Ấn Độ là cái nôi văm minh của châu Á.

– Nhưng sao lạ thế?– Ông Binh nhíu mày, trong ánh mắt ông có một tia lửa lóe lên –. Mất gốc à?

– Cháu không dám lạm bàn. Chữ Pháp, chữ Anh, chữ Nga, chữ Đức, chữ Tây Ban Nha … cũng là các dạng chữ nôm của các nước châu Âu ấy. Họ vay mượn bộ chữ cái La Tinh, Ả Rập để kí âm. Nhật, Triều Tiên, Việt Nam mượn các kí hiệu văn tự của Trung Hoa để ghi tiếng nói của dân tộc. Cũng tương tự thế, chữ Phạn đã được Thái Lan, Căm-pu-chia vay mượn. Tạm nói giản đơn như vậy.– Cô tiếp –. Tiếng nói và chữ viết! Tiếng nói là hồn nước, là di sản của cả dân tộc, hàng nghìn năm …

– “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn” … “Tiếng ta còn, nước ta còn” … Tôi nhớ không chính xác, hồi xưa, Phạm Quỳnh có viết đại để như vậy.– Ông Binh buột miệng, ngắt lời Lộc Biếc –.

– Đó là một vấn đề. Nước mất dài lâu, dân tộc bị đồng hóa, bị cai trị suốt nghìn năm, tiếng nói dân tộc vẫn tồn tại. Không những tiếng nói vẫn tồn tại mà dân tộc ta còn biết tiếp thu và phát triển vốn từ vựng một cách rất phong phú, cực kì tinh tế. Nước ta trước Cách mạng Tháng tám, vẫn dùng chữ Hán nhưng ngôn ngữ hàng ngày trong giao dịch vẫn sử dụng tiếng Việt; hơn nữa, còn đọc chữ Hán theo cách Việt, đồng thời sáng tạo và sử dụng chữ Nôm. Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm … được viết bằng chữ Nôm. Sau này, Pháp lại buộc dùng tiếng Pháp và chữ Pháp … Chữ Nôm, ấy là thành quả của trí tuệ dân tộc, vẫn bị bị một bộ phận người vong bản trong nước xem “nôm na là cha mách qué”!?! Đó là vấn đề chữ Nôm.– Lộc Biếc ngừng lại, nhìn ông binh ghi –. Còn câu nói của Phạm Quỳnh, cháu nghĩ thế này. Truyện Kiều, tuy là tinh hoa của tiếng ta và chữ Nôm, vẫn chưa phải là “từ điển” (kho từ vựng) chữ Nôm đầy đủ. Chữ còn, tiếng còn nhưng nước mất vẫn cứ mất. Nếu cứ mất như thế, rất nguy hiểm, có nguy cơ mất cả chữ lẫn tiếng, như Do Thái chẳng hạn … Nhắc đến Do Thái cho dễ thấy, chứ Do Thái còn khá, còn phục hồi lại được. Nhiều dân tộc có quốc gia hẳn hoi vẫn mất … Phải cứu nước, để còn tất cả, trong đó có tiếng nói dân tộc, chữ viết dân tộc. Câu nói của Phạm Quỳnh, có người phê phán là tay sai, mị dân, hay tiêu cực (chấp nhận sống dưới gót giày thực dân “bảo hộ”) … Thưa bác, thế hệ bác đã cứu được nước, đánh đổ được chữ Hán lẫn chữ Pháp khỏi vị trí thống trị của chúng. Thế hệ chúng cháu xin nhớ ơn.

Cả ông Binh lẫn Lộc Biếc đều sững người. Ông Binh chớp chớp mắt. Lộc Biếc cũng không ngờ đã thốt ra một lời nhớ ơn, biết ơn đậm đà đến vậy, như một tình cảm hồn nhiên từ vô thức.

– Trở lại vấn đề chữ quốc ngữ với mẫu tự La Tinh: cái “lạ” của dân tộc mình, thưa bác, có lạ không?

– Không. Cô giáo đã khảo sát qua nhiều dân tộc, Anh, Pháp, Mỹ … với chữ của họ. Riêng so sánh với các nước láng giềng, quả hơi “lạ”. Nhưng vậy thì dễ học, dễ đọc, mình vẫn giữ được hồn nước.

– Bác có nghĩ rằng, với chữ quốc ngữ với mẫu tự La Tinh, mình đã li khai, thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa để độc lập hơn không?

– Tôi chưa nghĩ …– Ông Binh ngập ngừng –.

– Có thể đó là một biểu hiện của sức mạnh Việt Nam, một phản ứng văn hóa, theo tinh thần Nguyễn Trãi, “Nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu; núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc, Nam] cũng khác” .– Lộc Biếc chú thích với giọng nhỏ hơn –. Ở đây, Bắc là Phương Bắc, tức Trung Hoa; Nam là Phương Nam, tức Việt Nam. – Cô nói tiếp –. Đó chỉ là phản ứng văn hóa, chứ không phải theo Tây. Phải xét phản ứng ấy trong điều kiện cụ thể – lịch sử. Chưa dân tộc nào chống Tây kịch liệt, lâu dài như Việt Nam. Mượn Tây chống Tàu, mượn Tây chống Tây, để Việt rất Việt, trong thế đứng của mình, ở châu Á và trên thế giới.

Ông Binh gật gù:

– Thế hệ chúng tôi chỉ biết hành động theo lòng yêu nước. Chính ý thức độc lập, tự do đã dẫn dắt như vậy. Tôi cũng không hiểu hết …– Ông nói chân thành –.

– Không ai hiểu hết tiềm lực của mình.– Lộc Biếc kết luận –. Chúng cháu cảm ơn bốn nghìn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam ta. Cháu cảm ơn bác.

Ông Binh ngơ ngác, sững nhìn cô giáo trẻ.

Cô nhìn vào đồng hồ đeo tay của ông Binh, thấy đã hơn chín giờ tối. Ngoài trời tối đen và chắc khá lạnh. Cô cũng cảm thấy hơi mệt, vội nói:

– Thưa bác, tạm ngừng ở đây. Xin bác lưu ý lại nguồn gốc của tiếng nói các nhân tộc nói chung, trong đó có nhân tộc Kinh chúng ta, theo quan điểm duy tâm và duy vật. Xin bác lưu ý thêm vấn đề chúng ta mới mở rộng, đó là chữ quốc ngữ. Lần sau, bác cháu mình sẽ nhắc lại chữ viết thời Hùng Vương, cả nguồn gốc chữ quốc ngữ theo chữ cái La Tinh, để bổ sung vào vấn đề mới bàn. Xin phép bác cho cháu về lại nhà tập thể.

Ông Binh cảm ơn cô giáo, tiễn cô ra tận ngõ. Lộc Biếc thấy ở khu trung tâm vẫn còn ánh đèn le lói qua các kẽ ván. Gió khuya thổi lạnh buốt. Nền trời đầy sao sáng, nhấp nhánh, xanh biếc. Cô nảy ra ý định sẽ nhờ Hoán, trong chủ nhật tới, sẽ mua giúp cô một cây đèn pin ở Đa Công. Cô mỉm cười hình dung một người cầm vầng trăng thu nhỏ đi trong đêm. Bỗng dưng cô nhận ra hình như cô đang có cảm giác cồn cào của người đói bụng, ngực khao khao rất lạ, có lẽ là cảm giác mệt của người thiếu dinh dưỡng, lao tâm. Lộc Biếc vẫn bước trong đêm một mình.

[…]
T.X.A.
.
.

Bài 38 trong tập thơ “Bốn năm chữ thập đỏ”:
KHÔNG BIẾT LẦN MẤY,
NGHĨ VỀ CHỮ QUỐC NGỮ ABC
Trần Xuân An

thuở đứng trước bảng đen phấn trắng
nói với học trò về chữ quốc ngữ ABC
nhắc đến các cố đạo Bồ và De Rhodes
liên tưởng Yersin với Đà Lạt! Họ vì ai, xưa kia?

sử ghi tên họ, đâu hẳn ân, nhưng nặng oán
chữ quốc ngữ ABC là những khẩu súng tây
Pháp bắn vào dân tộc ta! Thôi xưa rồi, quên thù hận
chỉ nhớ ơn những Cao Thắng rèn chữ quốc ngữ này.

T.X.A.
06:14 – 08:10, 19-03-2018 HB18

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2023718917902049

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/chu-quoc-ngu-abc.jpg

Bài 38 trong tập thơ “Độc lập thật, khát vọng!”:
CHỮ QUỐC NGỮ ABC
Trần Xuân An

— tặng bạn học Đoàn Thị Lệ Thanh —

cố đạo dùng kí tự la tinh
(không phải bảng chữ cái có cội nguồn nước Pháp)
phiên âm tiếng Việt
trải qua trăm năm, mới viết “Phép giảng tám ngày”…

rồi bằng ABC và bút sắt
học giả phiên âm Truyện Kiều chữ Nôm
— thứ chữ quốc âm, quốc hồn
Hàn Thuyên đuổi kình ngạc
ra biển ta: Biển Đông
(cá dữ nước mình, tai chúng chỉ quen tiếng Việt) (*) —
chữ Nôm, ngót ngàn năm ta gọt giũa sớm hôm
từ cưỡng ước Nhâm Tuất, nhạt nhoà, xơ xác

nhân thể, như cây tre uốn mình trong bão táp
Hán tự ngàn năm ta vẫn canh chừng
âm đọc khác, giữ xa quãng cách
để khỏi vong thân
càng thêm lạ xa quãng cách

học chữ “nhu” hay chữ nho (**)
ca dao Nam bộ thiết tha, ngấm ngầm chống giặc
rồi thức tỉnh hẳn, sau nhiều lần thức giấc
dùng vũ khí Tây, là kí tự Tây, chống Tây
lấy chữ Pháp ABC, chống Pháp
Việt ngữ ABC vẫn mang quốc âm, hồn Việt
sau luỹ tre làng, dạy nhau chép hịch
viết truyền đơn chuyền tay
sau gần trăm năm ta gọt giũa đêm ngày

chữ quốc ngữ Nôm
chế tác lại vỏ mượn Phương Bắc
Phương Bắc ngơ ngác
chữ quốc ngữ ABC
chế tác lại vỏ mượn Phương Tây
Phương Tây sửng ngây
vẫn chứa đựng tiếng nói Việt Nam, duy nhất

thế giới đâu còn bó chật
một cõi trung tâm Hán Hoa
thế giới ABC mênh mông, bát ngát
hầu hết năm châu, gần xa
ta dễ học chữ người, người dễ học chữ ta

chế tác vỏ chữ giặc, đánh giặc
cũng vỏ chữ kia, ta mở rộng lòng ra
giữ mãi quốc hồn, quốc âm nguyên chất.

T.X.A.
trước 17:25, 23-02-2017
………
(*) Đây cũng là một cứ liệu để xác định Biển Đông là biển nước ta.
(**) Ca dao Nam bộ: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ / đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu / khuyên anh về học lấy chữ nhu (nho?) / chín năm em cũng đợi, mười thu em cũng chờ”.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/1834321510175125/

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »

ÔI TRỜI, LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ, SAO BÀN LUI BÀN TỚI MÃI VẬY?

Posted by Trần Xuân An trên 27.11.2019

hidden hit counter

.
        
ÔI TRỜI, LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ,
SAO BÀN LUI BÀN TỚI MÃI VẬY?

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/chu-quoc-ngu.jpg

1) Đối với hai giáo sĩ De Pina (1585-1625, Bồ Đào Nha) và De Rhodes (1591-1660, Avignon, Pháp), người Việt Nam nên GHI NHẬN chứ không thể GHI ƠN. Đối với chữ quốc ngữ abc, chúng ta dùng như dùng SÚNG TÂY, như xưa đối với Tàu (“đoạt sáo Chương Dương độ”…). Nên chăng như thế cho công bằng?

2) Lịch sử chữ quốc ngữ abc ai cũng biết, thậm chí biết tận ngọn nguồn là chiếu chỉ giáo hoàng thế kỉ XV về cải đạo toàn thế giới bằng cách cho phép thực dân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha chia nhau đi thuộc địa hoá (giáo sĩ + thương nhân + binh lính) (*).

3) Học tập khoa học – công nghệ Mỹ, châu Âu nhưng không nhất thiết phải nguỵ biện cho Giáo hoàng thế kỉ XV và De Pina, De Rhodes. Chúa khác với Giáo hội. Âu Mỹ ngày nay đã khác xưa. Cũng không nên chống Phật, Lão, Nho, mà học lấy tinh hoa.

4) ‘Việt Nam vi thể, Âu Mỹ vi dụng’: bản sắc VN. là bản thể, khoa học thực nghiệm Âu Mỹ là công dụng thực tế. Tinh thần của “Phong trào Duy Tân tiền bán thế kỉ XX” là vậy. Nguỵ biện cho De Pina, De Rhodes làm chi!

5) Học tập khoa học – công nghệ Nga, Đông Âu thì rất nên, nhưng cũng không cần nguỵ biện cho Marx-Lenine, vì Nga, Đông Âu ngày nay đã khác. Cũng vậy, nguỵ biện cho De Pina, De Rhodes làm chi!

T.X.A.
27-11-2019
———–

(*) Lm. Trần Tam Tĩnh, “Thập giá & lưỡi gươm”, bản dịch Lm. Vương Đình Bích, Nxb. Trẻ, 1978: Sắc chỉ “Giáo hoàng Rôma” (Romanus Pontifex) do Đức Nicôla V ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454 và sắc chỉ “Inter caetera”(“Giữa những điều khác”), ngày 4 tháng 5 – 1493, qua Giáo hoàng Alech-xăng thứ 6, “giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên mà các dân phương Tây chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha” […v.v…]. Sắc chỉ 1454 có đoạn: “… toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Xaradanh (Sarrasins tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn”.

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2449699201970683
.
https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2449334648673805
.

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/505cbc3a-b42d-4a40-8891-779ba8ce4224.jpeg
.

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/2476335f-1824-4f4e-bdc2-a054a18426f8.jpeg
.

GHI ƠN NHỮNG KẺ XÂM LƯỢC TỔ QUỐC MÌNH Ư?
MONG XÁC MINH THÊM VỀ TƯ LIỆU

Từ lâu tôi đã đối chiếu tư liệu về 2 sắc chỉ Giáo hoàng năm 1454 (*) và năm 1493 (**) trong sách TG.&LG. của Lm. Trần Tam Tỉnh với sách của chính De Rhodes (“Phép giảng 8 ngày”), các cuốn sách của Trần Trọng Kim, Cao Huy Thuần, Tsuboi, và thấy, gián tiếp hay trực tiếp, đều khớp. Như vậy De Pina, De Rhodes là hai trong những GIÁO SĨ XÂM LƯỢC VĂN HOÁ liên kết với CÁC NƯỚC THỰC DÂN CŨ như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… Quá trình xâm lược kéo dài đến 4, 5 trăm năm, đến cả thời Hà Lan, Anh, Pháp mạnh lên, thay thế Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha suy yếu.

Vì thế, đề nghị nên GHI NHẬN họ góp phần tạo ra chữ quốc ngữ theo mục đích của họ, chứ không thể GHI ƠN. Nếu GHI ƠN, hoá ra chúng ta muốn chuốc tiếng cười khinh vào mặt mình: ghi ơn những kẻ xâm lược! Đó là TỘI PHẢN QUỐC!

T.X.A.
28-11-2019
…………….

(*) Giáo hoàng Nicolas V:
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Nic%C3%B4la_V
https://en.wikipedia.org/wiki/Pope_Nicholas_V

(**) Giáo hoàng Alexandre VI:
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Alexan%C4%91%C3%AA_VI
https://en.wikipedia.org/wiki/Pope_Alexander_VI

.

TỪ THỰC DÂN BỒ, HÀ LAN (XVI-XVII)
ĐẾN THỰC DÂN TÂY BAN NHA, PHÁP (XVIII-XX)

Chủ nghĩa thực dân Châu Âu: bao gồm nhiều nước da trắng xâm chiếm Phi, Á, Mỹ, kéo dài khoảng 5 thế kỉ (XV-XX). Trần Trọng Kim gọi là quá trình tìm đất (để thuộc địa hoá) song hành với truyền đạo Thiên Chúa (để nô dịch). Lm. Trần Tam Tỉnh gọi một cách hình tượng là “Thập giá & Lưỡi gươm”. Thương nhân cùng giáo sĩ đến trước, đặc biệt là giáo sĩ cải đạo dân bản xứ để tạo nội phản, cho đến khi tình thế chín muồi (có thể hàng trăm năm) thì quân viễn chinh mới đến để đánh chiếm, thống trị. Nước thực dân này khi suy yếu sẽ nhường chỗ cho nước thực dân trẻ, vừa mạnh lên.

T.X.A.
28-11-2019
Xem thêm:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_th%E1%BB%B1c_d%C3%A2n
.

.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , , , | Leave a Comment »

Thượng toạ THÍCH NHẬT TỪ nói về Hoà thượng THÍCH TRÍ QUANG

Posted by Trần Xuân An trên 20.11.2019

hidden hit counter

.
        
DI SẢN ĐẠI SƯ TRÍ QUANG ĐỂ LẠI CHO VIỆT NAM – Phần 4: Đại sư Trí Quang là nhà chính trị hay nhà tu hành?

TT. Nhật Từ chia sẻ vào ngày 15-11-2019 tại Chùa Giác Ngộ.

HÃY NGHE THÊM:
Đề tài: “DI SẢN ĐẠI SƯ TRÍ QUANG ĐỂ LẠI CHO VIỆT NAM”
TT. Nhật Từ chia sẻ lúc 18:30 ngày 15-11-2019 tại Chùa Giác Ngộ:
– Video trên Youtube: https://youtu.be/wKMqN5xRbUI
– Video trên Facebook https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/2668365213228951?vh=e&d=n&sfns=mo

(i) Tiểu sử Đại sư Trí Quang (1923-2019): Bậc trí tuệ của Phật giáo Việt Nam hiện đại
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/2462013140726948?vh=e&d=n&sfns=mo

(ii) Lễ tang đặc biệt của Đại sư Trí Quang: Không bàn thờ, bát nhang, báo tang, thành phục, đưa đám, phúng điếu
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/719988338485854?vh=e&d=n&sfns=mo

(iii) Xá-lợi xương đầu của Đại sư Trí Quang, tượng trưng cho TRÍ TUỆ, là đầu tiên và duy nhất trên thế giới
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/960422967647305?vh=e&d=n&sfns=mo

(iv) Đại sư Trí Quang là nhà chính trị hay nhà tu hành?
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/925978854441708?vh=e&d=n&sfns=mo

(v) Vì sao Đại sư Trí Quang im lặng hoàn toàn sau năm 1975? Có phải do bị khuất phục trước cường quyền hay ăn năn?
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/729447424227273?vh=e&d=n&sfns=mo

(vi) Di sản Đại sư Trí Quang để lại cho Việt Nam?
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/1201679690017223?vh=e&d=n&sfns=mo

(vii) Pháp nạn 1963: Chính quyền Ngô Đình Diệm cấm treo cờ Phật giáo trong mùa Phật đản nhưng khích lệ tín hữu treo cờ Vatican
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/2505377589738785?vh=e&d=n&sfns=mo

(viii) “Tuyên ngôn Phật giáo 5 điều” của Đại sư Trí Quang và bản chất của phong trào Phật giáo 1963
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/1301264440050882?vh=e&d=n&sfns=mo

(ix) Phong trào Phật giáo đấu tranh bất bạo động 1963 do Đại sư Trí Quang lãnh đạo không nhằm lật đổ chính quyền và không chống Thiên chúa giáo.
https://www.facebook.com/phapthoai.thichnhattu/videos/2748508372042651?vh=e&d=n&sfns=mo

(x) Giám mục Ngô Đình Thục ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm giết chết 8 Phật tử ở đài phát thanh Huế
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/1016516235358589?vh=e&d=n&sfns=mo
.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

Viết cho rõ về thầy Thích Trí Quang và thầy Trịnh Công Sơn

Posted by Trần Xuân An trên 20.11.2019

hidden hit counter

.
        
.
Viết lại, cho rõ hơn bài viết trước:
THẦY THÍCH TRÍ QUANG & THẦY TRỊNH CÔNG SƠN –
THOẢ HIỆP BẰNG IM LẶNG, BẤT HỢP TÁC
& THOẢ HIỆP BẰNG HỢP TÁC
Trần Xuân An

(Xem lại hai bài:
https://txawriter.wordpress.com/2019/11/16/hai-bai-tram-tu-ve-nhan-vat-lich-su-thich-tri-quang/ )

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/ea58889d-08ff-47ee-a9e4-619fe33b74b3.jpeg

.
https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/f5b83e8a-12ef-4293-8792-2ae69560d2ea.jpeg

~~~ Nguồn ảnh: Google search ~~~

Đó là hai thái độ, cách thức thoả hiệp. Một là của Hoà thượng Thích Trí Quang. Hai là của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Dù thế nào thì cũng đều bị hay được gọi là thoả hiệp.

Và tôi lại khẳng định nhận thức của mình về hai vị này: Sau 30-4-1975, họ đã đạt được hoà bình cho toàn dân tộc (thoát nội chiến) và thống nhất lãnh thổ cho đất nước (thoát chia cắt), nhưng họ đã, một người hi sinh tự do tôn giáo, Đạo Phật đành chịu trầm trệ, một người hi sinh tự do tư tưởng, sáng tác, toàn bộ nhạc phẩm trước 1975 bị chôn vùi, bị phê phán.

Trong khoảng mười một năm, 1975-1986, thực trạng là như vậy. Không thể nói khác được.

Từ 1986, đất nước Việt Nam đi vào Đổi mới, do sự chuyển biến, sụp đổ, tan rã từ Trung Quốc, Liên Xô, Đông Âu, tức là do tác động từ bản thân hệ thống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài. Nhờ vậy, chỉ từ 1986, Phật giáo mới hồi phục, về tu bổ, xây dựng chùa chiền, về in ấn kinh sách, về hoạt động Phật sự. Nhờ vậy, cũng chỉ từ 1986, hầu hết nhạc phẩm Trịnh Công Sơn mới được hồi sinh, về trình diễn, về ghi âm, về in ấn nhạc bản. Không phải do hai vị đấu tranh mà Đổi mới – sự thật là hai vị thoả hiệp theo cách của mỗi người với chính quyền hiện hành, trong 11 năm đó. Lại càng không phải do sự thoả hiệp với chính quyền cộng sản hiện hành mà có sự Đổi mới ấy.

Tóm lại, sự thoả hiệp, mỗi người một cách, của Hoà thượng Thích Trí Quang và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chỉ vì HOÀ BÌNH, thoát nội chiến, và vì THỐNG NHẤT, hai miền Nam – Bắc liền lại vết thương chia cắt mà thôi. Một người bị thời thế buộc phải hi sinh Đạo Phật và một người bị thời thế buộc phải hi sinh toàn bộ nhạc phẩm của mình. Sự thật về hai vị là vậy.

T.X.A.
20-11-2019

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2442982662642337/
.
CŨNG TỪ THẦY THÍCH TRÍ QUANG, THẦY TRỊNH CÔNG SƠN, CHỢT NGHĨ VỀ LỨA VÀO ĐỜI THỜI HẬU NỘI CHIẾN
Trần Xuân An

30-4-1975, Thượng toạ Thích Trí Quang đã 52 tuổi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã 36 tuổi. Họ đã định hình ở Miền Nam. Tinh hoa của họ đã phát tiết gần trọn vẹn dưới chế độ Việt Nam cộng hoà. Vì thế, sau ngày lịch sử ấy, công luận cho rằng họ đã thoả hiệp với chế độ mới, xã hội chủ nghĩa. Nói họ được giải phóng thì không đúng, vì họ đã mất tất cả. Thượng toạ Thích Trí Quang vẫn bất bạo động, bất hợp tác, nhưng im lặng, nhưng chỉ một mình, không kêu gọi ai thêm để thành phong trào. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phải viết nhạc lại từ con số không.

Hai vị khác với những người trẻ tuổi. Người trẻ tuổi, chưa định hình tư tưởng, sự nghiệp chưa có gì để mất, nên không ai bảo rằng họ thoả hiệp. Lớp người ấy mới bước ra khỏi ngôi nhà thơ ấu, thời mới lớn, học tập tiếp trong ngôi trường cũ đã đổi thay, đi trên con đường mới của bước ngoặt lịch sử bằng những bước đầu tiên, thiên hạ gọi họ là lứa lớn lên, vào đời, đòi quyền sống thời hậu nội chiến Việt Nam.

T.X.A.
21-11-2019

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2443911002549503/
.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , | Leave a Comment »

HAI BÀI TRẦM TƯ VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ THÍCH TRÍ QUANG

Posted by Trần Xuân An trên 16.11.2019

hidden hit counter

.
        
.

THỬ VẮN TẮT TRẢ LỜI
Ý KIẾN OÁN TRÁCH PHẬT GIÁO VÀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ THÍCH TRÍ QUANG
Trần Xuân An

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/ea58889d-08ff-47ee-a9e4-619fe33b74b3.jpeg

~~~ Nguồn ảnh: Google search ~~~

Trong ngày thứ nhất của tang lễ Đại lão Hoà thượng Thích Trí Quang, một nhân vật lịch sử quan trọng thuộc giai đoạn 1963-1967 và sau đó, vẫn còn có ý kiến trách móc về sự kiện lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, ngầm cho rằng chính phong trào Phật giáo đấu tranh đó và Đại lão Hoà thượng Trí Quang, như một lãnh tụ, đã góp phần dẫn đến tình cảnh thất thế hiện nay của Miền Nam nước ta.

Xin có vài dòng vắn tắt.

Phật giáo bị áp bức bởi chính quyền Thiên Chúa giáo của gia đình họ Ngô Đình (1955-1963), nên Phật giáo phải đấu tranh.

Nguyên nhân trực tiếp là vậy, nhưng sâu xa lại là quá trình xung đột văn hoá, từ thế kỉ XVI, khi giáo sĩ đầu tiên đến truyền đạo tại Nam Định. Không những chúa Trịnh mà cả chúa Nguyễn cũng cấm đạo. Đến thời Tây Sơn, vua Cảnh Thịnh quyết liệt cấm đạo. Kế đến, Nguyễn Ánh nhờ sự giúp đỡ của Pigneaux de Béhaine nhưng vẫn cảnh giác. Gia Long Nguyễn Ánh đã trăn trối cho thái tử Đảm (Minh Mạng) về điều này. Và từ đó, việc cấm đạo, sát tả khi căng khi chùng nhưng kéo dài đến tận phong trào Văn thân, Cần vương (đặc biệt dữ dội: 1885-1913).

Đại đa số nhân dân Việt Nam không cảm tình với Thiên Chúa giáo, nhất là khi Thiên Chúa giáo bị Pháp, Tây Ban Nha lợi dụng và bản thân một bộ phận Thiên Chúa giáo Việt Nam câu kết với thực dân Pháp.

Nói vậy, để thấy rằng, việc chống chính quyền Thiên Chúa giáo Ngô Đình Diệm là bởi nguyên nhân sâu xa trong cả hàng trăm năm lịch sử ấy, mà nguyên nhân trực tiếp là chính quyền Đệ nhất Cộng hoà Ngô Đình đã ngầm áp bức Phật giáo.

Có thể nói, Cách mạng Ba Số Một (1-11) năm 1963 xuất phát từ tinh thần dân tộc chống “tả đạo” kết hợp với tinh thần đấu tranh trong pháp nạn của Phật giáo.

Chính quyền Mỹ và Vatican bấy giờ muốn dựng hàng rào ngăn chận làn sóng đỏ cộng sản bằng Thiên Chúa giáo, Tin Lành (ở Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, cả ở Nhật và đặc biệt là ở Nam Việt Nam). Vatican thì quá rõ phong trào Cần vương bình Tây sát tả Á Đông cả trăm năm nhưng vẫn bất chấp, cứ muốn Thiên Chúa giáo hoá cả Châu Á. Mỹ hẳn không kịp tìm hiểu, và cứ ỷ y vào đô la và vũ khí. Do đó, chế độ chuyên chính Thiên Chúa giáo Ngô Đình không được lòng dân. Vì không được lòng dân, nên gia đình họ Ngô Đình càng độc tài, tàn độc. Kết cục, ba anh em họ Ngô Đình phải chết thảm khốc, nạn kiêu dân Thiên Chúa giáo cũng bị tiêu tan, chỉ còn là thế lực ngầm trong giai đoạn sau đó, 1967-1975.

Vài dòng trên nhằm làm sáng tỏ chút nào về nhân vật lịch sử Thích Trí Quang (1923-2019) và Phong trào Phật giáo đấu tranh 1963-1967. Điều tôi muốn nhấn mạnh là có tinh thần truyền thống Cần vương bình Tây sát tả cả trăm năm trước trong cuộc Cách mạng Ba Số Một đó (*). Và, trong cuộc đấu tranh ấy, Làn sóng Đỏ đã “ngư ông hưởng lợi”.

Nếu theo lập trường oán trách Phật giáo nêu trên, thì đúng ra, lỗi là do Vatican, người Mỹ và bộ phận Thiên Chúa giáo hãnh tiến, kiêu ngạo đắc thế bấy giờ.

T.X.A.
09-11-2019
……

(*) Tinh thần truyền thống thường ở dạng tiềm tàng, có thể ở một phong trào chính trị có đông đảo quần chúng tham gia, nó không được phát biểu thành lời nói, văn bản. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong tự truyện của Ngài (Nxb.TH.TP.HCM., 2011), Hoà thượng Thích Trí Quang viết rằng, Phong trào Phật giáo 1963 và sau đó không liên quan gì đến phong trào Văn thân, Cần vương.

Ý THỨC HAY KHÔNG Ý THỨC,
NHƯNG HÀNH ĐỘNG PHÙ HỢP THEO LOGIC LỊCH SỬ
Thượng toạ Thích Trí Quang chống chính quyền do người Thiên Chúa giáo đứng đầu hoặc còn bị Thiên Chúa giáo chi phối có nghĩa là đã đi theo logic lịch sử vốn vận hành từ hàng trăm năm trước, cho dù Ngài phủ nhận mối liên quan giữa Phong trào Phật giáo đấu tranh (1963-1975) với Phong trào Văn thân, Cần vương (thế kỉ XIX) và trước đó.
T.X.A.
18-11-2019

ĐỘC TÔN THIÊN CHÚA GIÁO Ở PHƯƠNG TÂY & Ở Á – PHI

Đọc văn học cổ điển và hiện đại Phương Tây, chúng ta thấy giáo dân và nhà thờ Thiên Chúa giáo, Chính thống giáo, Tin lành thật dễ thương; tuy thể hiện sự độc tôn, duy nhất thờ Chúa Jesus, nhưng vẫn toả ra lòng bác ái.
Khốn thay, Thiên Chúa giáo lại gắn liền với chủ nghĩa thực dân Phương Tây ở các nước Á – Phi… và cũng muốn độc tôn!
Vấn đề là ở đó!

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ CŨNG RẤT ĐỘC TÔN

Mặc dù chủ nghĩa Marx-Lenine chủ trương độc tôn bằng chính quyền chuyên chính vô sản, nhưng học thuyết chính trị – kinh tế và duy vật này lại gắn liền với phong trào chống thực dân cũ, nên nó có sức bành trướng. Và cho dù nó phát triển thành sự bành trướng của Liên Xô, rồi bành trướng Trung Quốc, nó vẫn có sức lôi cuốn các nước thuộc địa cũ.
Độc tôn đỏ và bành trướng đỏ! Vấn đề là ở đó!

T.X.A.
18-11-2019

https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2432773880329882/

~~~ Nguồn ảnh: Google search ~~~

KÍNH NGHĨ THÊM VỀ HOÀ THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG
Trần Xuân An

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/26f73dad-07cd-4c09-890a-9f91a3ad3ad7.jpeg

Lâu nay, tôi có ít nhiều tìm hiểu và suy nghĩ về Hoà thượng Thích Trí Quang trong phong trào Phật giáo đấu tranh năm 1963.

Đúng là trong giai đoạn 1955-1963, từ mức độ bị phân biệt đối xử, Phật giáo phải đương đầu với mức độ bị đàn áp. Nhân vật lịch sử Thích Trí Quang sáng chói ở cao trào 1963 – cuộc đảo chính Ba Số Một (1-11), và sáng chói cho đến 1966. Sau khi mặt trận “Bàn thờ Phật ‘xuống đường’” (*) không thắng lợi, Đệ nhị Cộng hoà được chính thức thành lập với Hiến pháp 1967, Phật giáo đã thật sự giành được tự do, bình đẳng, hoạt động của Thượng toạ Thích Trí Quang không còn rực sáng như trước đó. Tuy vậy, Ngài vẫn lãnh đạo một trong hai bộ phận Phật giáo Miền Nam Việt Nam (phái Ấn Quang), đấu tranh mãi cho đến tháng 4-1975.

Công chúng có thể hiểu rằng, sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các chính phủ kế tục, kể cả giai đoạn 1967-1975, Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống, vẫn còn trong đó “cái đuôi của ông Diệm”, nói theo cách của GS. Cao Huy Thuần (bài mới đăng lại trên BBC. com), do đó thượng toạ Thích Trí Quang vẫn lãnh đạo và đích thân đấu tranh. Phải chăng Thượng toạ không muốn còn ảnh hưởng Thiên Chúa giáo chi phối chính quyền và vai trò đứng đầu trên chính trường là người Thiên Chúa giáo? Hẳn rõ ràng là vậy chăng?

Công chúng cũng thắc mắc thêm: Sao từ 30-4-1975 đến khi Hoà thượng Thích Trí Quang viên tịch, 08-11-2019, Hoà thượng chỉ chuyên tâm dịch sách, viết sách, tu trì, không đấu tranh với chính quyền hiện hành? Hoà thượng bị giam lỏng tại chùa, luôn luôn có công an canh giữ? Hay Hoà thượng đã tìm thấy hoà bình, nên Hoà thượng đã thoả hiệp với chế độ mới, xã hội chủ nghĩa?

Phải chăng, trong giai đoạn 1963-1975, nhân vật lịch sử Thích Trí Quang đã đấu tranh để làm sụp đổ chính quyền Việt Nam cộng hoà? Đòi hoà bình trong khi bị tấn công bởi Giải phóng quân cộng sản, có nghĩa là Hoà thượng chấp nhận Việt Nam cộng hoà đầu hàng, bại vong, để Đất nước thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Gần 45 năm qua (1975-2019), Hoà thượng không đấu tranh chính trị nữa, có nghĩa là Hoà thượng đã thật sự thoả hiệp.

Vậy đâu rồi mục tiêu tự do tôn giáo mà Hoà thượng đã giương cao trước 1975? Ai cũng biết, chỉ sau Đổi mới, 1986, và sau khi Liên Xô, Đông Âu đỏ sụp đổ, 1991, Phật giáo mới được xây cất chùa chiền và hoạt động Phật sự như ngày nay. Nhưng Đổi mới trong nước vẫn đang tiếp tục và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới tan rã không phải là điều Hoà thượng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngờ tới.

Như vậy, có thể mông muội nhận định rằng: Hoà thượng Thích Trí Quang chỉ muốn hoà bình, thống nhất, và Phật giáo trầm lắng dưới chế độ Mác-Lênin cũng được, cũng đành. Phải chăng là thế? Nói theo cách nói dân dã hồi trước 1975: “Hoà bình, ăn hột muối cũng sướng”?

Để hiểu tư tưởng hoà bình chủ nghĩa (**) với tâm thế chấp nhận Phật giáo trầm trệ dưới chính thể mácxit-lêninit vô thần, vô tôn giáo hoá ấy, xin hãy liên tưởng đến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Không ai có thể bảo rằng Trịnh Công Sơn là Việt cộng “nằm vùng”. Và khi ông lên Đài Phát thanh Sài Gòn để phát biểu, 4-1975, hẳn ông đã biết toàn bộ nhạc phẩm của ông phải chịu đốt bỏ như “văn hoá phẩm phản động và suy đồi” (!). Ông cũng không thể ngờ có Đổi mới (1986) và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới sụp đổ (1991) để nhạc cũ của ông lại được phục hồi! Nhưng tại sao vậy? Có đau đớn nào hơn không?

Cũng như Trịnh Công Sơn, hẳn Hoà thượng Thích Trí Quang cũng đau đớn tận gan ruột. Không phải Ngài và ông Sơn không biết trước. Nhưng họ chấp nhận – chấp nhận để dân tộc thoát khỏi nội chiến nồi da xáo thịt. Họ hi sinh tôn giáo và nghệ thuật cho Đất nước hoà bình chăng? “Hoà bình, ăn hột muối cũng sướng”! Và họ hẳn cũng hi vọng, cuối đường hầm hun hút hoà bình xã hội chủ nghĩa sẽ có ánh sáng phục hồi, phục hưng Phật giáo, lại vang vang âm nhạc Trịnh Công Sơn?

Như vậy, Hoà thượng Thích Trí Quang và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phải chọn lựa trong việc thoả hiệp: thoả hiệp với bên nào? Thoả hiệp với Đảng Cộng sản Việt Nam hay thoả hiệp với Thiên Chúa giáo Việt Nam? Họ tin bên nào hơn? Theo bên nào thì Phật giáo tồn tại, âm nhạc họ Trịnh vẫn lưu hành? Phật giáo trầm trệ, nhạc họ Trịnh bị cấm, nhưng hết nội chiến. Nghèo đói, mất tự do, chưa độc lập khỏi Khối Đỏ hẳn, nhưng Đất nước hoà bình… Chọn lựa nào cũng chấp nhận mất mát!

Tôi mông muội hiểu Hoà thượng Thích Trí Quang như thế.

Trầm tư về bi kịch Hoà thượng Thích Trí Quang, bi kịch dân tộc Việt Nam ta, giới hạn trong giai đoạn 1945-1975, tôi nghĩ đến tương lai của nước ta: Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ trở lại là lực lượng dân tộc, yêu nước, chống ngoại xâm. Dân tộc Việt Nam phải có một chính quyền thuần tuý dân tộc, không phải Mác-Lê, không phải Phật giáo, không phải Thiên Chúa giáo, mới đoàn kết được cả dân tộc Việt Nam chúng ta mãi mãi.

T.X.A.
15-11-2019
……..

(*) Trong “Trí Quang tự truyện” (Nxb.TH.TP.HCM., 2011), Hoà thượng viết, việc đưa bàn thờ Phật xuống đường khởi phát từ một sĩ quan VNCH. và quần chúng hưởng ứng, ban lãnh đạo Phật giáo chỉ thụ động thuận theo quần chúng.
(**) Chủ nghĩa hoà bình: hoà bình bất cứ giá nào.
Xin bị chú ngoài lề: Không thể chấp nhận chủ nghĩa hoà bình vô điều kiện trước nạn ngoại xâm, như trước sự xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa với “đường 9 vạch” hiện nay do Trung Quốc ngang ngược tiến hành. Phải chiến đấu bằng nhiều phương cách.

.
https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2438513543089249/
.

HAI CHÚ THÍCH BỔ SUNG CHO HAI BÀI TÔI VIẾT VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ HOÀ THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG:

(*) Tinh thần truyền thống thường ở dạng tiềm tàng, có thể ở một phong trào chính trị có đông đảo quần chúng tham gia, nó không được phát biểu thành lời nói, văn bản. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong tự truyện của Ngài (Nxb.TH.TP.HCM., 2011), Hoà thượng Thích Trí Quang viết rằng, Phong trào Phật giáo 1963 và sau đó không liên quan gì đến phong trào Văn thân, Cần vương.

https:// www. facebook. com/tranxuanan.writer/posts/2432773880329882/

~~~~

(*) Trong “Trí Quang tự truyện” (Nxb.TH.TP.HCM., 2011), Hoà thượng viết, việc đưa bàn thờ Phật xuống đường khởi phát từ một sĩ quan VNCH. và quần chúng hưởng ứng, ban lãnh đạo Phật giáo chỉ thụ động thuận theo quần chúng.

https: //www. facebook. com/tranxuanan.writer/posts/2438513543089249/

T.X.A.
17-11-2019

.

3 TƯ LIỆU XEM THÊM:

1) Thích Trí Quang, “Trí Quang tự truyện” (2011):

Click to access triquangtutruyen.pdf

2) Ngô Thế Vinh & Phạm Đình Vy, “Phỏng vấn chín mươi sáu phút với Thượng toạ Thích Trí Quang (05.05.1966)”:
https://vandoanviet.blogspot.com/2019/11/phong-van-chin-muoi-sau-phut-voi-thuong.html
3) Vũ Hoài (Tiêu Dao Bảo Cự), “Trên đỉnh thanh xuân”, tiểu thuyết tự truyện, 2012:
https://vandoanviet.blogspot.com/2019/11/lanh-tu-toi-cao-viet-ve-hoa-thuong.html

.

NHÂN VẬT LỊCH SỬ CHÍNH TRỊ:
HOÀ THƯỢNG THÍCH TRÍ QUANG (1923-2019)

Phật giáo là một tôn giáo đúng nghĩa: Đức Phật Thích Ca đã rời bỏ ngai vàng đã dành sẵn, lìa xa chính trị để đi vào tâm linh, cứu khổ thế gian bằng tôn giáo thuần tuý. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn đấu tranh khi bị áp bức. Hoà thượng Thích Trí Quang (1923-2019) là nhân vật lịch sử chính trị trong bối cảnh bị áp bức ấy, chứ không phải đấu tranh để nắm giữ chức vụ chính quyền.

Mặc dù như thế, nhưng trong giai đoạn 1963-1967 và cả giai đoạn còn dư hưởng phong trào Phật giáo đấu tranh sau đó (1967-1975), có dư luận Hoà thượng Thích Trí Quang ủng hộ, hậu thuẫn cho một số chính khách ứng cử, theo cách như một lãnh tụ điều khiển ngầm, khiến nhiều người nghi ngại Hoà thượng đã sai lạc với tôn chỉ của Đức Phật.

Sử học chắc chắn sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu, nhận định về nhân vật lịch sử chính trị Hoà thượng Thích Trí Quang (1923-2019). Hoà thượng là nhân vật lịch sử chính trị quan trọng.

Trong ngày kính đưa tiễn Hoà thượng về Cõi Niết bàn, xin có vài dòng mông muội trên.

T.X.A.
09-11-2019

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , , | Leave a Comment »

Mấy câu thơ còn sót lại

Posted by Trần Xuân An trên 04.11.2019

hidden hit counter

.
        
.
1-11-1963 & NÓI VỚI MỘT BẠN FACEBOOK
Trần Xuân An

giáo đường thuần khiết nghe em
dính vào chính trị, buồn thêm nỗi đời!

T.X.A.
02-11-2019
https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2426098880997382/

https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/c7c49b7f-7a6f-407f-9375-ebf78ce30513.png

.
TÔI ĐỊNH NGHĨA TÔI
Trần Xuân An

tôi là dân của dân tộc
tôi là người của loài người
mãi mãi không ai trách hờn tác phẩm
kẻ yêu Tổ quốc, yêu Trái đất, bầu trời.

T.X.A.
04-11-2019
https://www.facebook.com/tranxuanan.writer/posts/2428007997473137/
.
https://txawriter.files.wordpress.com/2019/11/e593f61b-ce3d-494a-a97d-0d1e35c8e4f4.jpeg
.

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: | Leave a Comment »