Chiếc cầu Ý Hệ (cầu Hiền Lương)

Người bắn nhau nhưng đâu phải bắn nhau, Bắn những ngoại xâm sau lưng nhau đó (TrầnXuânAn)

Archive for Tháng Ba, 2013

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI (VIII) – tiếp theo

Posted by Trần Xuân An trên 27.03.2013

hidden hit counter

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương VIII
Trần Xuân An

1

Chỉ một ngón tay vào xách tay của Huyên, người cùng đi xe khách nói với giọng điệu tuy không gay gắt, dữ tợn nhưng là lạ, như thể doạ dẫm:
– Cái xách này “nặng” lắm đấy!
Huyên cau mày, sau một thoáng ngạc nhiên, nhưng anh kịp hiểu ngay, và đưa cao cái xách tay lên:
– Nhẹ thôi! Chỉ vài cuốn sách, sổ tay, bút viết, ít bộ áo quần, bàn chải răng và khăn mặt… Không có hàng lậu, quốc cấm đâu! Nhưng anh là ai? Tại sao lại chỉ vào xách tay tôi rồi bảo “nặng” lắm?
Gã đàn ông ấy cười gằn và im lặng. Huyên nghĩ có thể gã đàn ông muốn ám chỉ bài thơ “Lại bắt đầu bằng chữ cái thứ nhất” (hay “Lại tập đánh vần”) của anh chăng? Nhưng biết đâu, đó chỉ là sự vô tình, ngẫu nhiên, chứ chẳng có ai hơi đâu lại theo dõi Huyên và doạ dẫm như thế. Dẫu sao, cũng tỏ thái độ mặc kệ y, Huyên ngồi vào chỗ, chờ xe chạy. Suốt mấy tiếng đồng hồ, xe đã vượt qua hai phần ba hành trình, Huyên vẫn ngồi yên với xách tay trong lòng, đặt gọn trên hai bắp vế chân, vì sợ mất tập bản thảo thơ của chính anh. Đến lúc này, Huyên mới quay mặt lại, tìm xem có gã đàn ông vớ vẩn kia không. Quả là vẫn có y ngồi cách anh hai dãy ghế. Huyên bỗng ước ao sao được dịp công bố bài thơ ấy (*) càng rộng khắp càng đỡ bõ ghét, chứ rơi vào cảnh dấm dớ, úp mở, thật khó chịu. Thơ Huyên, Huyên không chịu đốt bỏ! PA.25 không muốn bắt quả tang bài thơ ấy trong tập bản thảo anh đang để trong xách tay! Nếu không có vụ khủng bố tinh thần ở hồ Xuân Hương và ở dốc bưu điện trung tâm Đà Lạt, hẳn Huyên cũng không tin anh đang bị theo dõi, doạ dẫm thế này. Mà thực ra, đây cũng là một cách khủng bố.
Xe đỗ trước quán “Bít tất”, đối diện với cột cây số 270 bên kia đường, chờ cho Huyên xuống xe xong, lại vụt chạy đi. Gã đàn ông vẫn còn trên xe. Hẳn y lên thẳng Đà Lạt. Còn Huyên, anh vào Trường Phổ thông trung học Đạ Nông, để bắt đầu niên khoá thứ ba, 1982-1983, tại ngôi trường này. Huyên tự biết, anh cố làm cứng như vậy, nhưng thật ra, chừng như thần kinh anh cũng quá căng thẳng, không khéo cũng đã rão ra.
Những vạt ruộng ngô quanh trường vẫn xanh. Sân trường vẫn đang vắng bóng học sinh. Cỏ vẫn thưa thớt mọc dăm vạt. Cây thông cao ngất giữa sân trường vẫn ngạo nghễ tốt tươi.
Hình như giáo viên chỉ có mặt ở trường vài ba người, vì đợt phép hè chưa hết.
Vào đến thềm dãy nhà tập thể, Huyên thấy anh Nguyễn Thái Tráng đang ngồi trong phòng vốn là phòng anh Bùi Sĩ Khen ở, trong năm học vừa qua. Ngoài anh Tráng, còn có một người đàn ông đứng tuổi khác, dáng người khá bệ vệ, mặc áo sơ mi trắng, chiếc mũ cối bọc vải vàng pha cam đặt bên cạnh, mới trông biết ngay là cán bộ công an ngoài Bắc mới vào. Huyên ngạc nhiên, thầm thốt trong lòng, “lại công an!”. Anh khẽ chào hai người, rồi đi vòng lui sau dãy phòng đơn. Một trong năm phòng đơn phía sau đã được Công đoàn trường sắp xếp cho Huyên, từ cuối năm học trước. Huyên tìm chìa khoá trong xách tay, rồi mở cửa phòng, bật công tắc đèn.
Huyên để cả áo quần đi đường, nằm nghỉ trên chiếc giường của mình.
Lát sau, Huyên nghe tiếng chào tạm biệt giữa anh Tráng và ông cán bộ công an ấy. Sau đó dăm phút, lại nghe tiếng chân anh Tráng đang tiến đến phòng Huyên.
Bước vào phòng, ngồi vào ghế sau bàn soạn giáo án, anh Tráng hỏi:
– Ra nghỉ phép có gì vui không?
Huyên ngồi dậy, trên giường của mình:
– Cũng bình thường, anh à. Ông công an nào vậy?
– Anh ruột của anh Lê Thừa Ích, hiệu trưởng cũ của trường mình đó! Ông ta vào hỏi thăm xem tại sao em ruột của ông ta lại bị Sở Giáo dục cho thôi chức ấy mà!
– Thì ra là vậy. Nhưng sao không hỏi Sở Giáo dục, mà hỏi trường mình, lúc chưa tựu trường, khai giảng?
– Ai mà biết ý ông ta thế nào! Công an vốn hay méo mó, lạm dụng nghề nghiệp, thích điều tra, kiện tụng gì đó.
Huyên cười:
– Tôi tưởng PA.25 đến bắt ai trong trường mình đó chứ! Còn như thế thì thây kệ họ với nhau. Rắc rối!
Nói thế, nhưng Huyên cũng nghĩ, biết đâu, người ta điều tra vụ anh Lê Thừa Ích, nhưng lại moi ra vụ khác, cũng là chuyện có thể xảy ra. Nghĩ thế, Huyên nghe lạnh ở sống lưng, khi nhớ đến bài thơ “Lại bắt đầu bằng chữ cái thứ nhất” của mình.
Sau vài câu chuyện trò thăm hỏi khác, anh Tráng và Huyên lại rủ nhau ra quán cà phê 99.
– Năm nay, Nguyễn Văn đã có quyết định của Bộ Giáo dục cho chuyển về Đồng Tháp rồi! Thế là trường mình vắng mất một tay đàn, giọng hát!
– Anh ấy về Đồng Tháp thì anh em mình cũng buồn thật.
Khi băng qua sân trường, băng tiếp qua quốc lộ 20 để đến quán 99, Huyên nghĩ chính bản thân anh cũng bướng, cứ giữ bản thảo bài thơ viết trong lúc say rượu, lại mất bình tĩnh ấy làm gì cho mệt chuyện, sao không đốt quách đi cho nhẹ người. Và anh hối hận là đã đưa cho anh Nguyễn Huynh một bản viết tay mất rồi!
Sau khi gọi cà phê, nhạc hoà tấu đã được bật, Huyên lại nghĩ ngợi tiếp như không thể dứt được luồng ý nghĩ trong đầu mình. Ờ, mà có gì đâu, bài thơ ấy. Chẳng qua là không thể làm thơ lãng mạn cách mạng về niềm vui hư ảo, như thoáng nắng xen lẫn thoáng mưa sương ven hồ Xuân Hương, Đà Lạt, một hồ nước bị bỏ bê đến mức rong nhờn tanh tưởi, rác rến nhớp nhúa, thì lao vào hiện thực để làm thơ nhưng không đích thực là thơ, như trong “Quán bên đường” của Trang Thế Hy, “đời thối phải nói là thơm”, “nghệ thuật… là câm, là điếc, là đui, mà đi…”, và để rồi hối tiếc, thấy mình rơi vào cảnh phá sản loại thơ-phi-thơ đó, đồng thời cũng khánh kiệt cả vốn liếng thơ ca lãng mạn cách mạng, của bản thân, khi đọc “Đêm cuối năm” của Tố Hữu. Suốt cả bài thơ đều được cường điệu để khắc đậm ấn tượng. Cường điệu cả hư cấu chính mình để tự phỉ báng bản thân mình không phải là nhà thơ trẻ, mà là gã lái buôn, đóng thuế bằng lương tâm, chế biến chất liệu đời đen tối thành thi ca tươi sáng trong thực tế cuộc sống! Tự phủ nhận sạch trơn chính mình, một cách thiếu bình tĩnh! Để rồi cuối cùng, thoát xác, trở lại là đứa trẻ tập đánh vần với bảng chữ cái, học tập lại từ đầu… Ờ, có gì đâu, bài thơ ấy! Chỉ là khủng hoảng phương pháp sáng tác thôi mà…
Huyên mỉm cười, tự trấn tĩnh. Thật ra, cho đến giờ phút này, trừ những bản nháp, phác thảo, chưa diễn đạt hết ý, Huyên vẫn giữ kĩ tất cả những tác phẩm hoàn chỉnh anh đã viết. Huyên chẳng phủ nhận bài thơ, đoạn văn nào của mình cả!
Đêm đó, Huyên lại lấy tập truyện Lỗ Tấn ra khỏi xách hành lí để đọc lại “Nhật kí người điên”.

2

Bước dạo trên lối đi ven bờ vực, bên dưới là con sông từ thác Liên Khương chảy về, hai thầy giáo, Huyên và Ngàn, trò chuyện bâng quơ trong ánh nắng buổi xế chiều. Huyên muốn kể cho Ngàn nghe vài ý tưởng đậm chất đời thường gần đây khiến Huyên đến lúc này mới có thể gạt bỏ khỏi lòng mình được. Anh đang tìm một cách nói tế nhị và tự nhiên hơn.
– Tháng vừa qua Ngàn đi tập huấn thể dục thể thao à?
– Đúng rồi, anh! – Ngàn xác nhận –.
Huyên cười một mình, rồi nói:
– Tháng qua, mình suy nghĩ mãi về hai cái truyện ngắn, khiến mình khá đau đầu.
– Truyện gì? Tôi đọc được chứ?
– Không. Mình chưa viết, và có lẽ cũng không viết, mặc dù cốt truyện, với các tình tiết ở truyện thứ nhất, và mặc dù sự việc cùng những suy nghĩ lao lung quanh sự việc đó ở truyện thứ hai, tất thảy đã đầy đủ trong đầu mình. – Huyên đáp –.
Đi qua khỏi xóm nhà ở phía tay trái, Huyên đã thấy quốc lộ 20 song song với con đường đất Huyên và Ngàn đang đi. Trước mặt họ, đằng xa kia là nơi được gọi là Miếu Ba Cô, nhưng đó không phải là ngôi miếu cổ được xây bằng gạch và lợp ngói âm dương, mà là một ngôi nhà lợp tôn, phên thưng cũng bằng tôn, khá lớn.
– Ngàn à, để mình kể cho Ngàn nghe. Ngàn có nghe không?
– Anh cứ kể đi. Rất mong được nghe.
– Truyện thứ nhất thế này: Có một anh giáo viên đang dạy học ở một trường phổ thông trung học nọ, tình cờ gặp và chuyện trò với một cô gái người Nam Bộ, cũng suýt soát tuổi với anh ta, ở một bến xe tại TP.HCM., trong khi sắp hàng mua vé. Anh còn được biết cô ấy là công nhân viên ở một ga đường sắt thuộc tỉnh Phú Khánh. Chỉ thế thôi. Vậy mà bẵng đi một thời gian, cô ta đột ngột đến thăm anh giáo viên ấy tại trường và nhà tập thể. Ban đầu, anh giáo viên cảm động vì sự thăm viếng đó. Nhưng cảm thấy cũng rất bất tiện vì không thể mua vé xe cho cô ta về Nha Trang trong ngày được, bởi vé xe đường dài, ngoại tỉnh, chỉ bán vào mỗi buổi sáng sớm. Do đó, anh ta phải xin cô giáo đồng nghiệp cho cô ta ngủ lại chung phòng trong một đêm. Nào ngờ, cô ta lại nấn ná ở đến cả ngày hôm sau. Điều đó khiến anh giáo viên trẻ bắt đầu nghi ngờ về tư cách của cô khách ấy. Hôm sau nữa, cô ta vẫn ở lại cùng với cô giáo đồng nghiệp của anh giáo viên! Lần này, anh giáo viên phải nói thẳng với cô giáo đồng nghiệp, đề nghị đừng tiếp tục cho cô ta ngủ lại, và anh ta sẽ không chịu trách nhiệm trước đồng nghiệp, nhà trường. Từ đó, anh giáo viên không tiếp xúc với cô khách kia nữa. Nhưng chẳng hiểu thế nào, cô khách ấy vẫn ở lại với cô giáo kia đến cả một tuần lễ, mặc dù ở ngày thứ ba, anh giáo viên đã bảo thẳng vào trước mặt cô khách: Tuy quý tình cảm của cô, nhưng cô không thể nấn ná ở đây, vì đây là nhà tập thể, trường học. Như vậy, việc cô khách vẫn nấn ná cả tuần lễ, hẳn là do cô giáo đồng nghiệp vốn cả nể và tốt bụng! Thế rồi, cũng đột ngột cô khách ấy bỏ đi, lấy theo cả chiếc xe đạp của cô giáo đồng nghiệp! Điều đó, khiến anh giáo viên muốn chết đứng. May thay, cô giáo đồng nghiệp không trách cứ gì anh giáo viên ấy cả, vì tính cách thực của cô khách kia đã biểu lộ rõ rệt ở hành vi cuối cùng. Cô ta không phải là một người tử tế. Anh giáo viên hú hồn, vì nếu không cứng rắn, không thuần lí trí trong trường hợp ứng xử đó, hẳn anh ta sẽ chuốc lấy những phiền toái tày trời! Dẫu sao đi nữa (có thể cô khách kia đã vứt chiếc xe đạp ở đâu đó), Huyên cũng định bụng sẽ có dịp mua lại xe đạp để bồi thường.
Ngàn nói:
– Truyện cũng không hay lắm.
Huyên cười thành tiếng:
– Ừ, không hay. Truyện thứ hai lại giản đơn hơn nữa. Ngàn có nghe không?
Ngàn cười:
– Truyện dở cũng nghe.
Huyên kể tiếp:
– Ở truyện thứ hai, sự việc lại diễn ra cách sự việc trong truyện thứ nhất khoảng gần một tháng. Lần này, lại là một cô gái khác. Cô này là y sĩ ở Đạ Dương (D’Ran), tỉnh mình. Mấy năm trước, khi đi công tác, sinh hoạt chuyên đề về chuyên môn trong vài ngày, ở huyện đó, họ có quen biết nhau. Cô ta cũng đột ngột đến thăm anh giáo viên trẻ, và trong bữa ăn trưa, cô ấy nói có một nhóm người mà cô ta chưa từng quen biết, bảo với cô ta rằng, nếu đến được với anh giáo viên kia, họ sẽ cho hai người một miếng đất để cất nhà và làm vườn. Chỗ đất đó cũng gần đây. Anh giáo viên rất kinh ngạc. Cô khách bảo, trước đây, cô ta cũng rất kinh ngạc khi nghe nhóm người đó hứa hẹn như vậy! Thế rồi, sau bữa ăn trưa đó, anh giáo viên liền đưa cô khách ấy ra bến xe Đạ Nông, mua vé chuyến xe chiều Đạ Dương, để cô ta về lại bệnh viện của mình. Anh đã xử sự một cách lạnh lùng, tuy rất khổ tâm vì hành xử như vậy. – Huyên nói –. Truyện thứ hai này cũng nhạt nhẽo quá, phải không?
– Nhạt lắm, và hơi kì quặc! – Ngàn nói thật cảm nhận của mình –. Anh giáo viên đó cũng đào hoa ra phết đó chứ! Lại quá lí trí!
– Nhiều khi đó là những cái bẫy! Nhưng thôi, đa nghi, suy diễn làm gì cho thêm đau lòng!
Huyên và Ngàn vẫn thong thả bước.
– Cả hai truyện đều nhạt và kì quặc! – Huyên nói tiếp –. Chính vì thế nên mình không viết ra giấy làm gì. Nếu viết thành truyện ngắn, phải hư cấu thêm, để phản ánh hiện thực một cách khái quát hơn, và có giá trị tư tưởng, giá trị thẩm mĩ hơn. Nếu vẫn để thô sơ như vậy, thì chỉ là hai mẩu chuyện thuộc loại thông tin mà thôi.
Ngàn ngạc nhiên hết sức, vì từ trước đến nay, chưa bao giờ Ngàn thấy Huyên lại nhạt nhẽo và vô duyên trong lúc chuyện trò như thế cả.
Họ im lặng tiếp tục bước, bỏ lại Miếu Ba Cô phía sau lưng khá xa, rồi bước ra phía quốc lộ 20, đi trên lề đường để trở về trường. Mặt trời chiều đã xuống thấp.
– Thôi, quên đi. Nhạt nhẽo quá và kì quặc quá! – Huyên nói –.
Ngàn lại bắt đầu ngẫm nghĩ, về cái nhạt nhẽo và cái kì quặc, nhưng anh chỉ đùa:
– Nhạt như nước ốc, nhưng cũng ngon miệng và bổ dưỡng hơn canh “toàn quốc”, lèo tèo vài cọng rau với bột ngọt ở bếp tập thể trường mình. – Ngàn nói và cười đến ngả nghiêng trên lề đường nhựa –.
Huyên im lặng. Lát sau, Huyên nói:
– Nếu đó là hai truyện ngắn hay hai chương đoạn của tiểu thuyết trường thiên, thì nhạt nhẽo và kì quặc, nhưng nếu đó là hai chuyện xảy ra trong đời một người, dăm người, thì đó là cả một sự kiện, sự cố, gây tổn thương và mãi kinh ngạc, rất đỗi kinh ngạc, Ngàn à!
Trường Phổ thông trung học Đạ Nông đã ở phía trước mặt họ.

3

Việc dạy và học ở trường của Huyên vẫn bình thường diễn ra. Huyên cũng vẫn ngày ngày lên lớp giảng bài, về phòng soạn bổ sung giáo án, chấm bài.
Một buổi sáng nọ, có một học sinh xin gặp thầy giáo Huyên. Em ấy nói:
– Thưa thầy, gia đình của anh học sinh lớp mười hai năm kia, có nhờ em thưa lại với thầy một việc. Đó là… Dạ, anh ấy đã đi nước ngoài, đâu tận Canada gì đó, có gửi về một món quà cho gia đình anh ấy, trong đó có cả một phần quà nhỏ kính biếu thầy. Vậy gia đình anh ấy mang lên trường cho thầy được không ạ?
– Tưởng là gì, chứ vậy thì có chi quan trọng đâu. Tôi gửi lời cảm ơn trước đến gia đình ấy nghe!
Chiều lại, có một ông trung niên đến nhà tập thể để trao món quà cho thầy giáo Huyên. Huyên mở ngay trên bàn viết, thấy có khoảng mười hộp thuốc Maalox, trị chứng đau bao tử. Anh không ngạc nhiên, vì biết Việt kiều khó gửi ngoại tệ về nước, nên phải mua các mặt hàng nhu yếu gửi về dưới dạng gửi quà, để giúp gia đình. Quà có thể là vải vóc, tân dược, đủ thứ, sẽ được thân nhân bán ra thị trường, thu lại tiền, và chi tiêu vào những việc cần thiết khác.
Khi nhận món quà tân dược Maalox ấy, Huyên nghĩ ngay đến bà mẹ của Hồng Vàng, vì anh biết bà mắc bệnh dạ dày cách đây đã khá lâu.
Sau khi tiễn chân người phụ huynh với lời cảm ơn, thầy giáo Huyên liền ra nhà chị Ninh, nhân viên phụ trách đời sống, để mượn xe đạp. Anh đạp thẳng lên bưu điện huyện Đạ Nông, để gửi biếu bà mẹ của cô sinh viên năm thứ hai Hồng Vàng thân mến của anh.
Nhân viên bưu điện mở từng hộp thuốc, xem xét từng vỉ một, rồi gói lại theo cách gói của bưu điện, cuối cùng là bấm chì niêm phong. Chỉ một lát sau, Huyên trả tiền cước phí và nhận biên lai. Huyên cảm thấy thật vui vì đã giúp được mẹ của Hồng Vàng, Cúc Trắng. Anh hi vọng hai cô gái này sẽ nhẹ được nỗi cánh cánh về căn bệnh của mẹ.
Dắt xe ra đến cổng, Huyên nghe tiếng thác Liên Khương theo gió vọng về.
Trên đường về lại trường, Huyên cảm thấy nhẹ nhàng vì đổ dốc là chính. Bỗng dưng, Huyên hoảng hốt, khi thấy một cây dao cỡ lớn, ai đó sau hàng rào nhà bên đường, ném ra ngay giữa mặt đường, toé lửa. Trong khi đó, trên đường không có ai. Huyên thầm nghĩ, lại khủng bố chăng, hay chỉ là ngẫu nhiên?
Huyên chưa vội về lại trường, anh vào quán 99 để tìm không khí thân quen và yên tĩnh. Anh dựa xe đạp vào sau gốc cây xoài thấp, ngồi tựa lưng vào cây xoài đó, nhìn ra cổng. Hương cà phê phin thơm ngát.
Thầy giáo Huyên đang lắng hồn theo các giai điệu hoà tấu từ nhà sàn vọng ra, bỗng thấy một nhóm thanh niên có vẻ bặm trợn đi vào. Một tên rút dao từ trong người ra, ném vào thầy giáo Huyên, khiến anh tưởng con dao ấy đã cắm phập vào tim anh. Hoảng hốt, nhưng Huyên chỉ sững sờ ngồi, sau một tiếng la tắt nghẹn trong họng. Nhóm thanh niên táo tợn kia lại bỏ đi. Sau mấy phút định thần, Huyên nhìn lên thân cây xoài, phía trên đầu mình, và thấy rõ con dao ấy đã cắm vào, khiến nhựa xoài đang ứa ra.
Thầy giáo Huyên ngơ ngác không hiểu gì cả. Anh chỉ nghĩ, lại thêm một trò khủng bố chăng? Bộ phận PA.25 bị lạm dụng? Hay chỉ là những kẻ xấu có tổ chức nào đó? Huyên đọc nhiều cuốn sách, trong đó có viết về lực lượng cảnh sát, an ninh của nhiều nước, họ cũng có sử dụng thủ đoạn của bọn xã hội đen để khủng bố trí thức, hay về các đảng phái chính trị làm áp lực nhau, cũng bằng thủ đoạn khủng bố đó, nhưng cũng viết rõ là có bọn xã hội đen hay lực lượng phản động tổ chức khủng bố quan chức, nhân viên nhà nước, như ám sát, bắt cóc, đe doạ…
Đến lúc này, Huyên vẫn ngơ ngác không hiểu gì cả. Anh có làm gì đâu, ngoài một giáo viên ngữ văn Việt và là một người trẻ tuổi làm thơ?
Đêm đó, thầy giáo Huyên lại một lần nữa nghiền ngẫm đọc “Nhật kí người điên” của Lỗ Tấn.

4

Huyên vẫn tiếp tục suy nghĩ để tìm giải pháp cho việc nâng cao lòng yêu thích, quý trọng tiếng Việt cho học sinh, nhất là niềm say mê đọc sách văn chương, các tác phẩm chứa đựng những giá trị cao đẹp về nhân văn, thẩm mĩ, đặc biệt là những giá trị thuộc về bản sắc văn hoá dân tộc, không thể tìm thấy ở những cuốn sách dịch từ văn chương nước ngoài. Huyên cũng biết, trong thời gian trước mắt, việc đổi mới nội dung phân môn giảng văn là bế tắc, vì chưa một ai dũng cảm viết bài, chưa một tờ báo nào dám dũng cảm đăng bài luận bàn về việc bất cập ấy ở sách giáo khoa.
Nghĩ ngợi mãi rồi cũng phải làm việc cụ thể, cần kíp. Huyên lấy một xấp bài tập của học sinh ra chấm.
Một học sinh thập thò ở cửa phòng Huyên. Huyên nhìn ra, thấy đó là bí thư chi đoàn lớp, được đặt biệt danh là Paven Korsaghin.
– Có việc gì không em? – Thầy giáo Huyên nói, và kéo một chiếc ghế, tỏ ý mời em ấy vào phòng ngồi nói chuyện –.
Sau một lúc thăm hỏi, Huyên nói:
– Năm học này, tôi không còn dạy lớp em. Tuy thế, tôi thấy mình còn một chút nợ với lớp em đó.
Học sinh ấy khẽ cười, nghĩ thầy giáo nói đùa.
– Thưa thầy, năm học vừa rồi, em nhận thấy mình có lỗi với thầy và các bạn trong lớp quá. Em không ngờ năm học này, thầy hiệu trưởng mới được bổ nhiệm về trường mình lại là người Miền Bắc chi viện.
Huyên cảm thấy có gì đó hơi bất ổn. Anh nhìn kĩ gương mặt học sinh ấy:
– Việc đó can hệ gì đến tôi đâu. Ai làm hiệu trưởng thì cũng thế.
– Thật ra, trong kì nghỉ hè vừa qua, em có tìm sách đọc về nghệ thuật sử dụng người trong lịch sử, và thấy mình thật kém cỏi, cố chấp quá.
– Tôi nói về việc ấy, trong năm ngoái, là do tình cờ, ngẫu nhiên đọc bài báo tường “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở trường ta” của em. Đơn giản chỉ vậy thôi. Có điều, lúc đó tôi nói, cũng chỉ nương theo ý em để góp ý cho em. Điều cần thiết là em cần phải nâng cao nhãn quan của mình, để nhìn rộng, nhìn xa hơn, chứ đừng suy nghĩ bằng cái bụng cá nhân. Cần phải có cái nhìn lịch đại và cả đồng đại, nghĩa là, học tập trong lịch sử và học tập ở các nước hiện thời, cùng thời với nước chúng ta. Cần phải thế, mới đoàn kết dân tộc được. Em có ý muốn phấn đấu làm lãnh đạo, thì cần phải thế, mới là nhà lãnh đạo có tầm vóc. – Huyên sực nhớ mấy dòng thơ Bertolt Brecht anh đọc tặng học sinh bí thư chi đoàn lớp này, và mỉm cười –.
– Dạ, em đã biết mình sai lầm, “ham cái lợi nhỏ nhặt trước mắt mà quên cái hại to lớn sau lưng”.
– Nhưng, em à, em nên lo việc học tập chuyên môn đi. Đó mới là điều cốt yếu. Cho dù em là bí thư chi đoàn lớp, thì chuyện chính trị cũng ở mức nào đó thôi. Vả lại, tôi là giáo viên ngữ văn Việt, chứ đâu phải là giáo viên chính trị. – Huyên đứng dậy, xem đồng hồ, và nói tiếp –. Thôi, xin lỗi em, tôi bận chút việc, phải làm cho xong. Em có thể gặp giáo viên bí thư Đoàn trường, hoặc giáo viên bí thư chi bộ Đảng, để tham khảo.
Thầy giáo Huyên tiễn học sinh ấy ra khỏi cửa phòng. Anh lại ngồi vào bàn viết, chấm nốt xấp bài, ngày mai anh phải trả cho lớp mười A, lớp anh được phân công làm giáo viên chủ nhiệm.

5

Tết Nguyên đán Quý hợi 1983, đối với thầy giáo Huyên, là một cái Tết buồn rầu và khủng khiếp. Anh có ý định tranh thủ mấy ngày nghỉ này để viết một bài phân tích, bình luận về mỗi một truyện ngắn “Nhật kí người điên”. Cách đó khoảng hơn nửa tháng, Huyên đã tìm ra một cách giải mã mới, chưa từng có trong bất kì cuốn sách phê bình văn chương, giáo trình văn học nào. Ngoài ra, thầy giáo Huyên còn muốn đề xuất một cách tân biên “Nhật kí người điên” .
Diễn tiến mới trong chuỗi suy tưởng của Huyên, đã khác với những tuần trước, là anh đang phải đứng giữa hai lực ép. Một bên là bộ phận PA.25 bị ai đó lạm quyền lạm dụng và một bên là phe nhóm tạm gọi là kẻ xấu. “Nhật kí người điên” phải được giải mã để đánh chặn cả hai phía: Kêu đòi Nhân quyền và phủ nhận Thượng đế. Đây cũng là một cách phê phán bè lũ bành trướng Trung Quốc.
Không bắt làm kiểm điểm, không thi hành kỉ luật nội bộ, không truy tố ra toà, mà chỉ khủng bố. Khủng bố để ép buộc Huyên đừng bao giờ dám viết loại tác phẩm cùng dạng như “Lại bắt đầu từ chữ cái thứ nhất” ư?
Không cấm được việc dạy ngữ văn Việt, nên chỉ khủng bố. Khủng bố để ép buộc Huyên đừng quá nhiệt tình, nhiệt tâm, lừng lẫy quá trong lĩnh vực giảng dạy ngữ văn Việt ư?
Đêm cuối năm âm lịch, sau giây phút giao thừa lặng lẽ và hình như cô độc, vì cơ chừng chẳng còn giáo viên nào trong nhà tập thể, Huyên đóng cửa, đắp chăn nằm ngủ, sau khi chỉ bật lên ngọn đèn nhỏ màu xanh ở góc phòng.
Lúc Huyên đang dần đi sâu vào giấc ngủ, chợt nghe tiếng xô giật cửa rất dữ dội. Chốt cửa bị bung ra. Và một người nhảy vào phòng, chồm lên người thầy giáo Huyên. Anh chỉ kịp hét lên, nhưng tiếng hét của anh đã bị chặn lại bởi một bàn tay mang găng đè chặt miệng anh. Huyên vùng quẫy, chòi đạp bằng tất cả sức lực của mình.
Nhưng không có gì xảy ra sau đó. Kẻ xấu ấy đã rời khỏi phòng sau khi ném một cái gì, vang lên tiếng phập, trên mặt bàn. Hắn chỉ khủng bố tinh thần của thầy giáo Huyên! Khủng bố! Khủng bố! Phải chăng Huyên đang rơi vào hoang tưởng bị khủng bố?
Huyên mệt đến muốn ngất đi, nhưng anh vẫn ý thức được anh đang tỉnh. Một quãng thời khắc khá lâu sau, anh ngồi dậy, bật bóng đèn lớn. Anh thấy rõ ràng trên bàn là một con dao nhọn, cắm vào mặt bàn.
Thầy giáo Huyên biết mình không thể gắng gượng thêm được nữa. Chắc hẳn mình phải rời bỏ ngôi trường này, vùng đất cao nguyên này. Huyên nghĩ thế, và buông mình nằm xuống, như ngất đi, cho đến sáng hôm sau.
Huyên vẫn tự đấu tranh, tự phân tích, tự luận giải đến mấy ngày sau. Sáng sớm mùng bốn Tết, hình như thế, Huyên chỉ mang theo một xách tay, gọn nhẹ như hôm đầu năm học về lại trường, để lại cả một tủ sách nhỏ, nhiều cuốn vở giáo án, chăn mùng, để ra bến xe, mua vé về TP.HCM..
Huyên ôm xách tay vào lòng, trong đó có bản thảo thơ của anh và tập truyện ngắn của Lỗ Tấn, ngồi trên chuyến xe rời khỏi Đạ Nông. Huyên biết mình đang bị sức ép, buộc phải làm kẻ đào ngũ khỏi ngành giáo dục! Anh nói thầm với chính mình: “Nhật kí người điên” mới, kêu đòi Nhân quyền, phủ nhận Thượng đế! Huyên quyết tâm sẽ phân tích, giải mã, bổ sung theo phát hiện mới của chính anh! Và còn nhiều đề tài, nhiều lĩnh vực khác nữa, Huyên ấp ủ bao nhiêu năm qua. Anh quyết tâm sẽ mãi làm thơ, viết truyện, nghiên cứu sử, phê bình văn chương, và chờ cơ may để đăng báo, in sách. Huyên không phải là kẻ đầu hàng số phận.

T.X.A.
TP.HCM., 09:15, 25-03 – 11:12, 26-03 HB13 (2013)

(*) Xem ở chương VI.

ĐÃ GỬI TTTĐT. HỘI NHÀ VĂN TP.HCM. (26-03 HB13 [2013])
& TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG (26-03 HB13 [2013]),
trước khi đưa lên website này

https://txawriter.wordpress.com/2013/03/27/hau-chien-khong-rieng-ai-viii-tiep-theo/

Chương I:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-i

Chương II:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-ii

Chương III:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iii

Chương IV:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iv

Chương V:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-v

Chương VI:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-vi

Chương VII:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-vii

Chương VIII:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-viii

Xem tiếp:
“Hậu chiến, không riêng ai” — tiếp theo — (IX)

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , | Leave a Comment »

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI (VII) – tiếp theo

Posted by Trần Xuân An trên 21.03.2013

hidden hit counter

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương VII
Trần Xuân An

1

Tuần trước, khi Huyên men theo lối đi ven bờ hồ cá mới đào, phía sau hông nhà bác Uy cai trường, định qua quán 99 như đã hẹn với anh Văn và anh Tráng, lại tình cờ gặp bác ấy từ nhà đi ngược chiều sang trường. Bác Uy dừng chân, hỏi Huyên:
– Cái vụ thầy Ích rồi ra sao, thầy nhỉ?
Huyên cũng đứng lại, cười:
– Cái đó là giữa các vị trong chi bộ Đảng, Đoàn trường, đều là người Miền Bắc 75 chi viện với nhau, chứ giáo viên trẻ Miền Nam bọn tôi, lại chưa phải đoàn viên, đảng viên gì, thậm chí có người như tôi cũng chưa làm hồ sơ xin công nhận hết thời gian tập sự, thì can dự làm chi hở bác! Họp hành, biểu quyết, cũng đã được định hướng rồi. Cấp trên đã quyết định tất. Mà ai lãnh đạo nhà trường thì cũng vậy thôi.
Bác Uy vốn là người Bắc vào Nam mấy chục năm rồi. Bác ấy cũng cười:
– Bây giờ tôi mới hiểu thầy. Lâu nay tôi cứ tưởng thầy đã được vào Đoàn, vào Đảng rồi chứ!
Huyên lại cười trừ, và chào bác Uy.
Tối nay, Huyên ra quán “Bít tất” mua vài điếu thuốc lá. Khi từ cổng trường đi vào, gần đến lối nhỏ giữa dãy phòng học cũ và văn phòng, Huyên thấy anh Lê Thừa Ích mở cửa phòng hiệu trưởng:
– Huyên ơi, vào đây một chốc!
Chắc anh Ích đã nhìn thấy Huyên qua khung kính cửa sổ. Huyên bước lên thềm, vào chỗ anh Ích. Ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn sa lông gỗ lắp kính dày, dưới ánh đèn ống trắng, Huyên thấy gương mặt anh Ích hơi phờ phạc, mệt mỏi.
– Anh cũng khoẻ chứ anh? Hen phế quản mạn tính, tiết trời này lại lạnh…
– Ừ, cũng hơi mệt thật. Lại thêm cái vụ bị thôi chức, phải lên Sở Giáo dục làm ba cái việc thuộc loại “dưỡng già” gì đó nữa, trong thời gian chờ quyết định của Bộ để về quê!… Thay đổi công việc, chỗ ở cũng phiền toái lắm. – Anh Ích hình như nén tiếng thở dài –. Mình cũng mong về quê, vì khí hậu ngoài đó phù hợp với bệnh hen phế quản của mình hơn cái xứ cao nguyên này. Hi vọng là ông anh ruột của mình, hiện đang làm trong cấp uỷ Bộ Nội vụ, sẽ giúp mình để được nhanh chóng hơn.
– Bộ Nội vụ?
– Ừ, Bộ Nội vụ tức là Bộ Công an đấy.
– Vâng, em biết rồi. Bộ Công an lấy tên là Bộ Nội vụ thì ai cũng biết.
Anh Ích rót nước trà vào hai tách sứ, từ bình thuỷ được đậy nút bằng một chiếc bóng đèn điện tháo chuôi, nhưng anh lại nói:
– Cậu uống tí rượu nhé! Cao hổ cốt thứ thiệt, chứ chả chơi đâu.
– Vâng, xin anh một chén nhỏ. – Huyên đáp –.
Anh Ích vào giường ngủ, phía sau chiếc tủ sắt đựng hồ sơ giấy tờ, lấy ra chai rượu. Rượu mạnh, cay nóng cả họng, nhưng thơm nồng.
– Bây giờ mình mới nói chuyện với cậu về bài thơ Tố Hữu trong dịp Tết vừa rồi. – Anh Ích cười buồn buồn –. Tâm trạng của mình lúc này cũng tương tự như “Đêm cuối năm. Riêng một ngọn đèn / Dở hay, khôn dại, những chê khen / Làm, ăn, hai chữ, quen mà lạ / Thế cuộc, nhân tình, rõ trắng đen…”. – Anh Ích nhấp thêm một chút rượu –. Đúng là con người có những lúc như thế thật. Thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, cả Nguyễn Công Trứ cũng thế. Nhưng với Tố Hữu, đúng là lạ thật. Trước đó, có bao giờ thấy hình tượng con người, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu như thế đâu! Mình cũng có thư từ trao đổi với anh em bạn bè ở ngoài Bắc, họ cũng bảo là như thế! Tình hình đất nước, chứ không chỉ thơ ca thôi đâu, chừng như đang chuyển mình, cậu ạ.
Huyên cảm thấy anh Ích “bắt mạch” đúng rồi, nên cũng nói:
– Đâu chỉ là hình tượng con người, cái tôi trữ tình, mà qua đó, thấy tình hình ở trên cấp cao đó chứ. Anh có để ý là Tố Hữu đã vận dụng linh hoạt thủ pháp nghệ thuật đối, không những làm nổi rõ các mặt đối lập của thế cuộc, nhân tình, ở khổ đầu, mà còn có ở khổ hai, khổ ba nữa, nhất là “tự cường – luồn lọt”, “gan góc – yếu hèn”, “cách mạng – hư danh”, “đóng góp – đua chen”, rồi lại có cả “tan bèo bọt – dậy tiếng kèn”… Thật ra, thủ pháp đối trong thơ cổ cũng có rất nhiều, như đối “hoa” với “lá”, “vượn” với “nai”, nghĩa là cùng bình diện, nhưng không nhất thiết phải đối với dạng đối kháng như phơi ra tích cực – tiêu cực ở bài “Đêm cuối năm”. – Huyên nói –. Em thấy ông Tố Hữu không những nói đến cái tôi đối diện với cô đơn, mà còn mạnh dạn đưa ra mặt tiêu cực, thậm chí là rất tiêu cực, như “luồn lọt” ngoại bang, vì nó đối với “tự cường” dân tộc… – Nhưng Huyên vẫn dè dặt –. Nghĩ như vậy có vượt quá ý tác giả Tố Hữu không anh?
– Ừ, thế thì cũng khủng hoảng thật. – Anh Ích chừng như muốn co lại với bản tính kín kẽ –. Thôi, cậu uống rượu đi. Mình rót thêm chút nữa nhé!
– Thôi, anh à. Rượu ngâm cao, mạnh quá!
– Mình cũng mới uống với Nguyễn Thái Tráng, thư kí công đoàn. Hơi say say rồi. – Ngừng một lúc, anh nói thêm –. Ngày mai mình lên Đà Lạt, nhận việc ở Sở. Trường này tạm thời do cô Phú Sơn, hiệu phó, làm quyền hiệu trưởng, và thư kí hội đồng Dương Sĩ Cảm được đôn lên làm hiệu phó thứ hai, vì anh Nguyễn La Sắc đã đi học quản lí. Rồi sẽ có hiệu trưởng mới về thay mình.
– Vâng, vụ việc đã do cấp trên quyết định rồi… Em chỉ xin chúc anh sức khoẻ.
Anh Ích và Huyên bắt tay nhau để chia tay.
Huyên mở cửa bước ra khỏi phòng, trở về nhà tập thể. Đêm cao nguyên lạnh thật, thảo nào anh Ích lắm khi phải lấy khăn bịt kín cả miệng lẫn mũi, có lúc phải thở hốc lên đằng mồm, tính khí đâm ra cáu gắt, khó chịu.

2

Có thông báo từ Sở Giáo dục gửi về Ban Giám hiệu điều động Huyên đi dự Hội nghị giảng văn Miền Trung tại Đại học Sư phạm Huế. Đó là một tin vui đối với Huyên.
Huyên lên Đà Lạt, gặp anh Nguyễn Công, trưởng phòng phổ thông kiêm cán bộ chỉ đạo bộ môn ngữ văn Việt. Anh Công đã mua vé xe khách và vé tàu lửa liên vận cho cả hai. Huyên trả lại tiền cho anh ấy, rồi sau khi đi về, sẽ nộp lại công lệnh cùng giấy triệu tập cho Trường Phổ thông trung học Đạ Nông, để nhận lại tiền tàu xe cả chuyến ra lẫn chuyến vào.
Xe khách sẽ chở anh Công và Huyên cùng nhiều hành khách khác xuống Nha Trang. Tàu thống nhất, dừng ở Ga Nha Trang, đã được đặt chỗ theo hợp đồng với Bến xe Đà Lạt.
Lúc xe bắt đầu chạy xuống đèo Ngoạn Mục, Huyên nghe những người cùng đi trên chuyến xe ấy chuyện trò với nhau về hồ thuỷ điện Đa Nhim:
– Hồ nước bị nứt nên không chứa được nước ở mức bình thường. – Một người nói –.
– Vì vậy điện dạo này cứ lúc tắt lúc đỏ. – Một người khác góp lời –. Chán quá sức!
– Hình như Nhà nước đang mời kĩ sư Nhật Bản sang sửa chữa hay sao đấy!
– Công nghệ của Nhật chẳng lẽ chỉ Nhật mới nắm bí quyết sửa chữa?
Đúng là ít lâu nay điện ở Đạ Nông lúc có lúc không. Những đêm không có điện, một giáo viên vật lí bèn nảy ra “sáng kiến” dùng kết hợp với điện đất. Anh ấy vẫn sử dụng một dây nối với nguồn điện bị cúp và một dây nối vào cọc sắt ngắn cắm xuống đất. “Sáng kiến” này chỉ giúp bóng đèn đỏ được sợi tung ten bên trong như lửa nhang, có thể soi thấy đồ đạc bàn ghế trong phòng để khỏi vấp té, nên được đùa là “tối kiến” – thấy lờ mờ trong bóng tối! Chính trong hoàn cảnh đó, trước Tết khá lâu, Huyên có làm một bài thơ về Đa Nhim và nạn đói năm Ất dậu 1945 rất tâm đắc. Lúc này, Huyên chợt nhớ lại…
Khi ra đến Huế, mới thấy Huế càng cạn kiệt hơn, và không chỉ về điện mà cả nhiều thứ nhu yếu khác như gạo và nước sinh hoạt.
Tuy vậy, Huyên cũng có niềm vui là về lại Đại học Sư phạm Huế, trường cũ, gặp lại các thầy cô giáo thời Huyên còn là sinh viên. Đại biểu Thuận Hải (Ninh Thuận – Bình Thuận, có Võ Nguyễn Tâm, vốn là sinh viên học cùng lớp với Huyên, nay cũng như Huyên, về dự Hội nghị.
Trong suốt mấy buổi ở Giảng đường Canada (tên thường gọi của Giảng đường I), các bản tham luận của các nhà giáo từ các đại học như Hà Nội, TP.HCM., Vinh, Việt Bắc và các trường phổ thông trung học Miền Trung (Thanh Hoá – Thuận Hải) cũng chỉ đi vào những kĩ thuật giảng văn, kể cả các kĩ năng hỗ trợ như nghệ thuật đọc diễn cảm, và đề xuất ý kiến về một số thuật ngữ như nên gọi là tác phẩm văn chương thay vì tác phẩm văn học… Huyên không thấy có một ai dám bàn về việc cấu tạo lại bảng phân phối chương trình với các bài giảng văn cụ thể. Nói rõ hơn, không một ai dám bàn về việc thay đổi nội dung phân môn giảng văn, chẳng hạn như phải dạy những bài văn chính luận, truyện ngắn, trích đoạn tiểu thuyết, bài thơ nào, thuộc bộ phận văn học hiện đại – cách mạng, cho phù hợp với tình hình tình hình hậu chiến (tuy vẫn còn có chiến sự ở biên giới phía Bắc và ở Campuchia), cả nước đã thống nhất hai miền, nội bộ dân tộc không còn mâu thuẫn địch – ta, rất cần hoà giải, hoà hợp… Vấn đề đó mà không bàn, nghĩa là không có gì mới. Huyên những muốn đăng đàn với nội dung như đã có lần bàn luận với anh Nguyễn Huynh ở Đà Lạt, nhưng cảm thấy không thể phát biểu như vậy được. Huyên ngại những phiền hà không lường trước. Và Huyên cũng cảm nhận là các đại biểu đều biết tự kìm chế như chính anh.
Không những không bàn về nội dung giảng dạy phân môn giảng văn, Hội nghị cũng không có ai dám thừa nhận công khai tình trạng chung là học sinh hiện tại đang chán ngán phân môn này. Nếu có chăng, ý kiến cũng quá kín đáo, lướt nhẹ, đến mức như không nói gì. Các nhà giáo đại biểu chỉ có thể nói thật khi chuyện trò với nhau bên ngoài hội trường.
Ngoài ra, hai bài của Nguyễn Minh Châu (1978), Hoàng Ngọc Hiến (1979) và mới đây, “Đêm cuối năm” của Tố Hữu (1982), không có một âm vang nào trong Hội nghị.
Võ Nguyễn Tâm, một lần đi vào nhà ăn tập thể cùng với Huyên, nói khẽ:
– “Vũ Như Cẩn”.
Huyên cười:
– “Vẫn như cũ” thật!
Sau Hội nghị, Huyên có tranh thủ đến thăm một số nhà văn, nhà thơ quen biết ở Huế. Trong một buổi tối, điện tắt như đêm ba mươi ở cả thành phố, Huyên đến nơi ở của một nhà thơ nổi tiếng. Nhà thơ tiếp Huyên dưới ánh đèn nến được cắm trên hai chân đèn gỗ sơn đỏ, vốn được đặt trên ban thờ gia tiên, nay tạm vô phép đặt xuống bàn tiếp khách. Từ phía này bàn, nhìn qua bên kia bàn, Huyên thấy gương mặt anh ấy như tấm ảnh chân dung của người đã chết, có điều nét mặt không được thanh thản hay ít ra cũng bình thường, như ở những tấm ảnh thờ khác, mà sinh động hơn, vì rất sầu héo, đau đời. Có thể anh ấy cũng nhìn thấy Huyên như vậy: một tấm ảnh Huyên đã chết, chết đau đời, sầu héo, giữa hai cây đèn thờ!
1982 là thời điểm đất nước mình đang ở trong tình trạng khó khăn cùng cực, không khí xã hội tù đọng, trì trệ, như cả đất trời đều ngột ngạt, oi bức trước khi mưa rào đổ xuống giữa mùa hè. Đó cũng là thời điểm những tư tưởng “xé rào” âm ỉ, như sắp sửa “bung ra” trong lĩnh vực văn chương, tư tưởng…
Sáng mai lại, anh Nguyễn Công tranh thủ ra Quảng Bình thăm nhà vài hôm, Huyên cũng ra Quảng Trị thăm mẹ và chiều vô lại Huế, để kịp vào TP.HCM..
TP.HCM. tuy xa đường hơn, nhưng vì đó là nơi dễ mua vé xe lên lại Đạ Nông, Lâm Đồng hơn, đường từ thành phố ấy lên đó cũng ít nguy hiểm hơn, và cũng vì Huyên có ý định tranh thủ thăm viếng nơi này, nơi khác, xem thử TP.HCM. có gì thay đổi, nên Huyên vào đó trước.
Không khí bức bối ở Huế, Huyên cũng nhận thấy được khi ở TP.HCM., nhưng TP.HCM. bộc trực hơn nhiều. Văn nghệ sĩ và nhà giáo đã dám nói thật, nói thẳng ra trong nhiều chỗ, nhiều nơi, kể cả những khi có các vị lãnh đạo cao cấp. Huyên nghe kể lại như thế, và cũng đã tận mắt, tận tai nghe những câu nói huỵch toẹt, những bài thơ có từ ngữ khá nghệ thuật, khí thơ rất mạnh mẽ, do chính các nhà thơ tác giả đọc trong cuộc rượu.
Chai rượu đã khô đến giọt cuối cùng, được dốc ngược, cắm vào cái li cối. Trên đít chai là cây đèn cầy. Chiếc đèn “dã chiến” kiểu đó được đặt giữa bàn rượu. Ngồi bên này bàn, nhìn qua bên kia bàn, người này thấy người kia như thể đang chụm hai tay bưng đèn đi soi tìm cái gì đó, với nét mặt vừa khổ đau vừa căng thẳng khủng khiếp.
Cũng tình cờ, trên một quầy sách ven lề đường phố, Huyên mua được tập truyện ngắn của Lỗ Tấn, anh đã đọc từ khá lâu rồi và nhiều khi có ý định tìm mua lại. Trong đó, có “Nhật kí người điên”, viết về một giáo viên trung học mắc chứng bệnh bức hại cuồng, hoang tưởng rằng chính bản thân anh ta bị anh em, bà con, xóm giềng hăm he ăn thịt…
1982, Huế là vậy, TP.HCM. cũng thế.
Và thật không may mắn chút nào, khi Huyên tìm đến nhà người bà con của Hồng Vàng tại một con hẻm khá rộng, dễ tìm ở quận Phú Nhuận, nhưng rất tiếc là Hồng Vàng đã lên thăm nhà ở Đà Lạt!
Huyên đành lên xe về lại Đạ Nông với nỗi buồn nặng trĩu xen lẫn niềm hoang mang, bức bối chung. Huế, TP.HCM., Đà Lạt, và cả huyện lị Đạ Nông nữa, đều một không khí xã hội như thế.

3

Cũng trong học kì hai năm học 1981-1982, Huyên còn được điều động lên Đà Lạt để chấm thi cuộc tuyển chọn học sinh giỏi ngữ văn cuối cấp phổ thông trung học, nhằm hình thành đội tuyển của tỉnh. Sau đó, cũng chính Huyên phụ trách bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi đó của năm trường huyện, kể cả huyện mới Đạ Huoai, ba trường tại thành phố Đà Lạt (chưa kể trường vừa học vừa làm). Đạ Nông có hai học sinh được chọn, đều là nữ. Phí tổn ăn ở của cả thầy lẫn trò đều được chu cấp từ ngân sách của Sở Giáo dục. Trường Phổ thông trung học Bùi Thị Xuân tạo điều kiện về cơ sở vật chất, gồm phòng học và bếp tập thể.
Anh Nguyễn Công, trưởng phòng phổ thông kiêm cán bộ chỉ đạo bộ môn ngữ văn Việt, lại bận công tác, nên chỉ mỗi một mình Huyên đảm trách việc bồi dưỡng ấy, trong suốt thời gian trên hai mươi ngày. Chỉ sau đó, khi triệu tập các học sinh ấy để chính thức thi cấp quốc gia, theo đề và đáp án của Bộ Giáo dục, Huyên sẽ không có mặt.
Đúng là giảng dạy học sinh giỏi rất đáng phấn khởi, vì ở các em, trình độ tiếp thu nhanh, vận dụng tốt. Có một điều không thể nói là không thất vọng, khi thầy trò tâm sự với nhau, một học sinh nói thật là phải dự thi học sinh giỏi môn ngữ văn chẳng qua vì nể thầy chủ nhiệm cũng là giáo viên ngữ văn, chứ hồ sơ thi đại học, đã ghi là khối B tự nhiên! Em ấy cũng tương tự trường hợp một học sinh ở Đạ Nông đạt điểm 7, bằng điểm với Hồng Vàng, trong kì thi tốt nghiệp năm ngoái!
Hai học sinh khác có kĩ năng diễn đạt khá tốt, nhưng kiến thức thể hiện trong bài làm lại thiếu hụt. Huyên hỏi riêng từng em một:
– Em có thích đọc sách văn chương không? Trong một năm, em đọc được bao nhiêu cuốn?
– Dạ, sở thích duy nhất của em là đọc sách văn chương. Chỉ kể từ năm lớp mười đến nay thôi, ít ra mỗi năm em đều đọc mươi cuốn tiểu thuyết, mươi tập thơ và vài cuốn phê bình văn học.
– Cụ thể, em đọc sách gì? – Huyên lại hỏi –.
– Dạ, thưa thầy, hầu hết là sách dịch.
Dẫu thế, Huyên cũng cảm thấy mừng, và anh quả quyết:
– Không cách nào học sinh giỏi ngữ văn nếu chỉ học ở trường lớp mà không chịu đọc sách văn chương. Tôi cũng thừa nhận là sách dịch ở nước ta hiện nay là từ khá tốt đến tốt, có chọn lọc để dịch, không dịch ẩu. Hầu hết là văn chương thế kỉ XIX trở về trước của Phương Tây và văn chương Nga…
Nhưng Huyên không thể không buồn vì học sinh ấy chỉ thích văn chương nước ngoài được dịch ra tiếng Việt, chứ không phải sách văn chương của các tác giả Việt Nam hiện đại – cách mạng. Phải chăng sự thể đó là do nhà văn, nhà thơ hiện thời ở nước ta? Anh hỏi tiếp:
– Em không đọc sách văn chương trong nước, và hình như cũng không đọc kĩ sách giáo khoa?
– Dạ, thưa thầy… – Học sinh ấy thấy hơi khó trả lời –.
Học sinh thứ hai cũng trả lời tương tự như vậy. Huyên hiểu mình đã suy đoán đúng.
Bộ môn ngữ văn Việt là môn công cụ, môn nòng cốt của tất cả các ngành khoa học xã hội, đã đến mức như thế, nhưng không hề được báo động công khai trên báo chí và cả trong Hội nghị giảng văn Miền Trung vừa rồi!
Khi kết thúc đợt bồi dưỡng học sinh giỏi ấy, Huyên thanh thản tản bộ ven hồ Xuân Hương, tiếp tục suy nghĩ để tìm ra biện pháp nào cho học sinh mãi đậm lòng yêu quý với ý thức giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt mẹ đẻ, trau dồi kĩ năng diễn đạt và bắt kịp tiếng Việt hiện thời, chứ không phải tiếng Việt thời Nguyễn Trãi, thời Nguyễn Bỉnh Khiêm hay thời Nguyễn Du, bỗng dưng có hai người thanh niên đi đằng sau, nắm lấy lưng áo Huyên, xô Huyên suýt ngã xuống hồ, nhưng cũng vội kéo Huyên lại. Huyên sững sờ nhìn hai kẻ ngang ngược, côn đồ ấy đang bỏ đi. Chúng không quên quay mặt lại tỏ vẻ hăm doạ, khủng bố tinh thần. Huyên nhìn kĩ áo quần, dép nhựa của hai tên ấy, anh đoán chắc là người ngoài Bắc mới vào. Và sực nhớ lời anh Nguyễn Huynh hôm nào, Huyên nghĩ có lẽ đó là người của PA.25 chăng?
Chưa hết kinh hoàng, ngay chiều hôm ấy, khi đi ngang qua con dốc lên bưu điện trung tâm Đà Lạt, Huyên lại bị hai tên khác, người Miền Nam, hù doạ, xúc phạm. Một tên cầm áo Huyên kéo anh vào sân một ngôi nhà nhỏ, miệng chúng nói thật nhanh, không rõ tiếng: “Vô xem con xồ, vô đây con xồ”. Con xồ, tức là con chó! Huyên giằng lui, hất tay hắn ra, quay lại, và bước nhanh ra đường, với trạng thái kinh hoảng thật sự. Chẳng hiểu vì sao lại có sự khủng bố tinh thần quái ác như thế? Huyên có làm gì mích lòng ai đâu? Phải chăng đó cũng là người của PA.25 như anh Nguyễn Huynh nói?
Huyên không ngờ kết thúc đợt bồi dưỡng học sinh giỏi, sau hơn hai mươi ngày anh trút hết tâm lực mình để hoàn tất công việc, những mong đội tuyển tỉnh đạt kết quả cao trong kì thi cấp toàn quốc sắp tới, anh lại bị cái trò khủng bố này! Chẳng lẽ do bài thơ “Lại bắt đầu từ chữ cái thứ nhất”? Ngoài anh Nguyễn Huynh, có ai đã đọc được rồi sao? Nhưng bài thơ ấy có gì đâu để đến nỗi như vậy?
Huyên xem lại lưng áo và tay áo khoác, rõ ràng là có vết lôi kéo, gần xoạc cả vải, đứt chỉ ở nách áo, chứ không thể là ảo giác như trong “Nhật kí người điên” của Lỗ Tấn được! Nhưng nếu chúng cứ làm cái trò khủng bố này, rồi Huyên cũng hoá điên như trong “Nhật kí người điên” thật!
Tối hôm đó, định sẽ đến nhà anh Huynh, nhưng đi ra đường, Huyên thấy sợ quá, đành nằm vùi trên giường của người bạn dạy vật lí, giáo viên Trường Phổ thông trung học Bùi Thị Xuân, nơi Huyên tá túc suốt thời gian qua.
Hoảng sợ thật sự, Huyên liền về Đạ Nông ngay ngày hôm sau.

4

Về đến Đạ Nông, khi vào tới trường, Huyên mới lấy lại được ít nhiều bình tĩnh. Việc trước tiên, Huyên xem lại va li của mình có vết tích gì lạ không, bản thảo anh có ai tìm thấy không. Huyên cũng phần nào thêm yên tâm, khi chẳng thấy có dấu hiệu gì khả nghi, bài thơ “Lại bắt đầu từ chữ cái thứ nhất” vẫn còn đó.
Thật ra, đối với Huyên, bài thơ ấy chỉ là kỉ niệm, ghi nhận một tâm trạng đã trải qua, và được viết trong một lúc thiếu bình tĩnh mà thôi. Huyên không phủ nhận những tác phẩm nào anh đã viết. Đúng hơn, tác phẩm của anh bị phủ định bởi quan điểm sáng tác mới… Chung quy, đó là tâm trạng, cảm giác trước sự nghiêng đổ của ngôi nhà văn chương của riêng anh được chính tay anh xây trên nền cát phương pháp sáng tác… Nền cát phương pháp sáng tác ấy đang chạy…
Việc giảng dạy vẫn bình thường diễn ra. Huyên thấy tốt nhất là nên quên vụ bị khủng bố tinh thần ở Đà Lạt, bằng cách tìm việc gì đó để tập trung vào. Anh sực nhớ là mình cũng như Thuỷ, mỗi người đều trải qua hai năm dạy học ở các vùng khai hoang lập ấp, mới về giảng dạy ở trường phổ thông trung học hoàn chỉnh trong hai năm tiếp theo, gần đây nhất, và cũng đều chưa làm hồ sơ xin công nhận hết thời hạn tập sự. Anh bảo Thuỷ: Bọn mình là giáo viên miền núi, thời gian tập sự chỉ một năm. Nếu chỉ tính thời gian ở Trường Phổ thông trung học Đạ Nông, đủ ba lớp mười, mười một, mười hai, bọn mình thừa một năm. Thuỷ cũng muốn làm cho xong việc này, nên cả hai đều hoàn tất trong một tuần tất cả mọi thủ tục, rồi nộp cho Ban Giám hiệu, nhờ chuyển lên Sở Giáo dục, Sở sẽ chuyển ra Đại học Sư phạm Huế để làm bằng tốt nghiệp luôn thể. Công việc này cũng giúp Huyên lãng quên vụ việc bị khủng bố không đáng nhớ ở Đà Lạt vừa qua.

5

Thầy giáo Huyên vào lớp anh có tiết dạy. Sau thủ tục chào giáo viên, cả lớp ngồi xuống, lấy giấy ra làm bài tập kiểm tra mười lăm phút như đã được dặn dò ở tiết học hôm trước. Trong khi học sinh chép đề bài trên bảng, thầy giáo Huyên mới viết xong bằng phấn trắng, và trong khi các em đang làm bài, Huyên đi xuống cuối lớp, xem lướt qua tờ báo tường. Anh bị hút vào một bài viết có nhan đề “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở trường ta”, với tên họ của một học sinh, Huyên biết, hiện đang làm bí thư chi đoàn lớp! Hơi ngạc nhiên vì giông giống bài xã luận ở báo Nhân dân, Huyên đọc thử, và mỉm cười rồi cảm thấy khó chịu vì giọng điệu như thể là của một lãnh đạo, thuộc chi bộ Đảng tại trường, thậm chí như của Huyện uỷ viên hay Tỉnh uỷ viên!
Chờ học sinh nộp bài đến em cuối cùng, Huyên nói:
– Sáng nay, tôi có đọc bài báo tường của bí thư chi đoàn lớp, thấy thiếu một từ cần thiết. – Nhìn học sinh ấy, Huyên hỏi –. Em có biết bài báo của em thiếu từ gì không?
– Dạ, em không biết ạ. – Bí thư chi đoàn lớp đứng dậy trả lời –.
– Đó là từ “kiến nghị”. Lẽ ra em phải đặt nhan đề có thêm từ ấy, để lễ độ hơn. Nhưng tại sao em lại đặt vấn đề “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở trường ta” trong khi tại trường đã có chi bộ Đảng, ít ra vẫn còn hai đảng viên, là thầy Bùi Sĩ Khen, cô Lê Thị Em Nguyên?
– Thưa thầy, vì em thấy trong Ban Giám hiệu ở trường ta hiện nay không có ai là đảng viên cả ạ. – Vẫn ở tư thế đứng, học sinh ấy nói. – Cô Phú Sơn chỉ là quần chúng, trí thức cũ. Thầy Dương Sĩ Cảm mới được kết nạp Đoàn ở học kì một.
– Thế là đủ cơ cấu “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí” chứ còn gì nữa! – Huyên khẽ cười thành tiếng –. Thầy Khen, cô Nguyên là Đảng; cô Phú Sơn, thầy Cảm là Nhà nước! Tôi nghĩ cơ cấu song hành đó là đặc điểm của thời kì quá độ… Nhưng em cũng thấy là trường ta còn khuyết một vị hiệu trưởng, nay mai Sở Giáo dục sẽ điều động về. Em đặt vấn đề ấy làm chi? Tôi thấy em nên đặt vấn đề là làm đơn kiến nghị Sở bổ nhiệm về trường mình một thầy hay cô hiệu trưởng đã có quá trình hoạt động cách mạng, cùng với tiêu chí quan trọng nhất là gốc Miền Nam. Thế mới phù hợp với yêu cầu quần chúng giáo viên, học sinh và phụ huynh… Cương vị đó, hiện nay phải là đảng viên. Nếu em muốn, thì ghi cụ thể yêu cầu, “phải là đảng viên”, cho rõ.
Bí thư chi đoàn lớp bỗng run giọng nói, do xúc động bởi ý tưởng trong lòng, chứ không phải vì sợ thầy giáo Huyên, một quần chúng trắng:
– Đảng đã chiến đấu lâu dài, hi sinh to lớn, thế mà bây giờ để quần chúng ngoài Đảng nắm quyền, em không thể chịu được!
Nhiều học sinh có lẽ chưa vào Đoàn cười rộ lên, với ý châm biếm. Có em phẫn nộ vì cách nói hơi vô lễ của bí thư chi đoàn: Quần chúng nắm quyền là ai kia chứ? Đối với thầy cô trong Ban Giám hiệu, nói thế mà nghe được sao? Còn Huyên, anh sửng sốt, lặng người một thoáng. Rồi Huyên cười, nói:
– Tôi cũng khiếp vì ý thức về tính Đảng của em rồi đó. Từ nay chắc phải đặt thêm cho em biệt danh Paven Korsaghin, tên của nhân vật chính có tính cách nhiều khi quá căng, trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy”. – Huyên cười mỉm, nói tiếp –. Tôi đọc tặng em thêm vài câu thơ của Bertolt Brecht, một nhà thơ, kịch tác gia Đông Đức: “Học đi, học đi, những người cộng sản / Bởi vì các bạn / Sẽ là / Các nhà lãnh đạo tương lai”. – Huyên ngừng lại, rồi nói –. Thôi, cả lớp trở lại với tiết học! Thế mà mất đi mươi phút rồi.
Huyên quay lại, viết lên bảng đen đề mục tiết học: “Luyện tập: Cách dùng từ phù hợp với văn cảnh”. Cả lớp khẽ ồ lên, vì bây giờ mới hiểu ra việc thầy giáo góp ý nên thêm từ “kiến nghị” vào nhan đề bài báo tường.

T.X.A.
TP.HCM., 09:37, 19-03 – 11:05, 20-03 HB13 (2013)

ĐÃ GỬI TTTĐT. HỘI NHÀ VĂN TP.HCM. (20-03 HB13 [2013])
& TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG (20-03 HB13 [2013])

https://txawriter.wordpress.com/2013/03/21/hau-chien-khong-rieng-ai-vii-tiep-theo/

Chương I:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-i

Chương II:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-ii

Chương III:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iii

Chương IV:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iv

Chương V:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-v

Chương VI:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-vi

Chương VII:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-vii

Xem tiếp:
“Hậu chiến, không riêng ai” — tiếp theo — (VIII)

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , | Leave a Comment »

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI (VI) – tiếp theo

Posted by Trần Xuân An trên 18.03.2013

hidden hit counter

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương VI
Trần Xuân An

1

Chuông reo, báo hết tiết thứ hai. Huyên bước xuống khỏi bục giảng lớp 12C với cuốn vở giáo án và sách giáo khoa. Học sinh đứng dậy chào tiễn. Ra khỏi lớp, đến phòng văn thư gần đó, Huyên định ghé vào xem báo trước khi về lại nhà tập thể phía sau. Nhân tiện, anh rửa vội mấy ngón tay còn dính bụi phấn bảng ở thau nước được bác Uy cai trường múc sẵn, đặt trên giá sắt nơi góc hiên, rồi lau khô bằng chiếc khăn cũng vắt trên giá ấy. Vào văn phòng, thấy có mấy phong thư bưu tá viên mới đem đến, đặt ở bàn giấy, kề chiếc máy đánh chữ, Huyên nhặt lên xem thử có thư mình không. Huyên mỉm cười khi thấy thư của Hồng Vàng, cũng vẫn bốn chữ viết tắt L.T.H.V. ở góc phải trên của phong thư, nhưng địa chỉ đã là TP.HCM., chứ không còn là Đà Lạt nữa. Huyên cầm luôn tờ báo Nhân dân, nói với cô thư kí văn phòng: Tôi mượn tờ báo này, lát nữa sẽ mang trả. Không kịp thấy cô ấy có gật đầu, ghi sổ gì đó hay không, Huyên bước nhanh, rời khỏi nơi đó, để đọc thư Hồng Vàng một cách trọn vẹn hơn.
Cửa phòng ở đóng, như vậy là Chu có tiết thứ ba. Huyên mở cửa ra vào và mở luôn cửa sổ, ngồi sau bàn viết. Huyên mỉm cười một lần nữa trong niềm vui lần thứ năm nhận được thư cô học trò trung học mới trở thành sinh viên năm thứ nhất này.
Thư Hồng Vàng thể hiện niềm vui khi đã trải qua được gần trọn một học kì tại Đại học Sư phạm TP.HCM., với niềm đam mê văn chương, ngôn ngữ Việt được nhân lên gấp bội.
Huyên tạm gác lại niềm vui cộng hưởng, đồng cảm trong anh để liếc xem mấy trang báo Nhân dân. Anh bắt gặp bài thơ của Tố Hữu, nhan đề khá lạ với phong cách nhà thơ này: “Đêm cuối năm”! Và cả bài thơ nữa, là một trời đáng kinh ngạc!

“Đêm cuối năm. Riêng một ngọn đèn
Dở hay, khôn dại, những chê khen
Làm, ăn, hai chữ, quen mà lạ
Thế cuộc, nhân tình, rõ trắng đen

Gỡ lối “bao” xưa, người mọc cánh
Được mùa “khoán” mới, đất lên men
Tự cường, mới biết ai gan góc
Luồn lọt, hay chi phận yếu hèn

Cách mạng, mừng thêm tay đóng góp
Hư danh, chừng bớt kẻ đua chen?
Dòng đời cứ chảy, tan bèo bọt
Thế trận lòng dân dậy tiếng kèn!

31-12-1981”.

Điều kinh ngạc là thơ trên báo Nhân dân lại có giọng điệu, nỗi niềm như Nguyễn Bỉnh Khiêm và chút ít tâm trạng Cao Bá Quát! Thơ của một tác giả nào đó trên đất nước Việt Nam mình hiện nay mà như vậy, đã đáng kinh ngạc rồi, nhất là khi nó được đăng trên tờ báo vốn là cơ quan trung ương của Đảng. Nhưng quái lạ thay, đó lại là thơ của Tố Hữu, một nhà thơ suốt mấy mươi năm kiên quyết nắm vững quyền lực chuyên chính văn chương nữa!
Chẳng lẽ Nguyễn Minh Châu (1978), Hoàng Ngọc Hiến (1979) lại tác động đến cả thi sĩ chuyên chính ấy (1982)!
Nhưng Huyên không thể giữ tờ báo ấy lâu, anh đành phải mang ra phòng văn thư để trả lại.
Đang tiết thứ ba, ở văn phòng vắng hoe, không có giáo viên nào, chỉ còn cô văn thư và anh Lê Thừa Ích, nay là hiệu trưởng, vừa mới thay thế anh Đặng Đắc San trong học kì một này.
Với niềm kinh ngạc vừa bùng lên trong tâm trí mình, lại gặp anh Ích, vốn là giáo viên ngữ văn Việt, Huyên chìa trang báo có bài thơ mới nhất của Tố Hữu:
– Anh Ích đã đọc bài thơ này của Tố Hữu chưa? Anh xem thử.
Anh Ích nheo mắt, vì không mang theo kiếng tuổi:
– Sao, có gì lạ à?
– Vâng, quá lạ. Không nói thơ trong ngăn kéo của phó thường dân, cán bộ hưu non nào đó. Chỉ nói thơ đăng báo. Dù đăng báo thường thôi, thì bài thơ này cũng đã lạ rồi, anh ạ. Huống nữa, là của Tố Hữu, lại báo Nhân dân! Anh xem thử.
Anh Ích cầm ngay tờ báo, đi nhanh qua phòng hiệu trưởng.
Huyên quay gót bước lui nhà tập thể.
Huyên vừa bước vừa nghĩ, sáng nay, anh nhận được thư Hồng Vàng nhưng không hiểu thế nào lại đọc được cả bài thơ thế thái nhân tình như thế của Tố Hữu, cũng gần như cùng một lúc!

2

Bài thơ “Đêm cuối năm” của Tố Hữu đăng trên báo Nhân dân, số đặc biệt khoảng đầu năm 1982, được tác giả ghi phía dưới: 31-12-1981, như bùng vỡ một trận mưa dữ dội bất thường trong tháng rét buốt nhất của mùa khô cao nguyên Liên Khàng – Đức Trọng này, đối với Huyên. Trận mưa chưa từng có ấy kéo dài từ trước Tết Nguyên đán năm Nhâm tuất (1982) cho đến sau Tết cả hai tháng, trong tâm trí Huyên.
Thơ Tố Hữu không còn như trước đó nữa.
Có chất Nguyễn Bỉnh Khiêm, có chất Cao Bá Quát, trong bài thơ ấy.
Từ bài thơ “Từ ấy” đến bài thơ “Đêm cuối năm” là quãng thời gian không thực? Không những Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, mà lần này, cả Tố Hữu!
Thêm một lần, Huyên tự khẳng định trong đầu mình như thế. Với Huyên, có một sự đổ vỡ của ảo vọng về phương thức sáng tác nào đó, mà “Đêm cuối năm” có thể chỉ là một nhát búa cuối cùng, khởi đầu trận mưa ầm ào cuồn cuộn lũ.
Trong cơn say từ cuộc rượu, hình như rượu nấu từ ngô, trắng đục, với một dĩa cải chua vàng úa được “kí sổ” từ bác Uy gái, những câu thơ từ chốn sâu thẳm nào đó của tâm hồn Huyên hiện dần ra trong đầu anh, trong khi anh Nguyễn Văn ôm đàn khẽ hát. Huyên biết đã đến lúc tâm trạng ướt đẫm trận mưa kéo dài gần vài tháng qua bắt đầu kết đọng thành tứ thơ với những câu chữ, âm điệu mơ hồ. Huyên đột ngột từ giã anh Văn. Anh Văn gật đầu nhưng vẫn không ngừng hát. Huyên đi vòng ra phía trước, trở về phòng mình, thấy Chu đang ngồi chuyện trò với cô Hậu trên bậc thềm, dưới ánh đèn điện hành lang vàng yếu. Huyên mở khoá cửa phòng, bước vào, bật đèn, ngồi vào ghế sau bàn viết.
Ngay trong đêm đó, Huyên viết trọn bài thơ mới nhất, buồn nhất, thảng thốt nhất, và hi vọng nhất, khác với mạch thơ và giọng thơ trước đó của mình. Nhưng cũng chỉ là phác thảo.
Đến tuần sau, vẫn lại là một phác thảo khác, mặc dù tứ thơ và phần lớn câu chữ, âm điệu vẫn thế. Lại chỉnh sửa, để biểu đạt tứ thơ sinh động hơn bằng những từ ngữ, hình ảnh, âm điệu đắt hơn. Rồi Huyên cũng hoàn tất bài thơ ấy với cảm giác tạm hài lòng. Huyên tạm hài lòng khi bài thơ đã hình thành trên những trang giấy của tập vở nháp, đồng thời Huyên cũng biết mình đã khác trước.

LẠI BẮT ĐẦU TỪ CHỮ CÁI THỨ NHẤT

sớm mai bên hồ Xuân Hương
thấp thoáng nắng trên mưa sương bất chợt
cô gái không quen ngước tròn đôi mắt
nắng loáng qua niềm vui không ngờ
khi chung quanh tiếng thông buồn như khóc
nước rêu xanh che rong nhờn và rác
trời cứ sương cứ nắng cứ mưa
huyền hoặc, mị lừa?
những gì là có thực?

niềm ray rứt dẫn lòng tôi đi lạc
hoang mang sương mù
thảng thốt, mỉm cười, bẻ bút
thề chẳng bao giờ dại dột làm thơ
phải chăng là có thực?

hai năm chẳng dại dột làm thơ
thơ-phi-thơ biến tôi thành gã lái buôn đau đớn nhất
mua nghìn giọt lệ bán trăm ngọc biếc
thu vào hờn oán đổi trả sương hoa
đóng thuế lương tâm cho bao việc nhiễm Mao
lãi vô vàn: rợn lạnh những hư vô!
phải chăng là có thực?

“Đêm cuối năm”. Tôi mềm trong tiếng thơ
rượu tàn cơn ngầy ngật
thấp thoáng nắng trong mưa sương lất phất
và đôi mắt, đôi mắt, triệu nghìn đôi mắt
từ đời thực hiện về
mưa chiêm bao sao ướt đầm khuôn mặt ai kia
rũ xuống bàn
sửng sốt
thảng thốt nhìn hai tay khánh kiệt
phải chăng là có thực?

những gì là có thực?
tôi ngọng nghịu hỏi mình như trẻ thơ
và tập đọc lần thứ nhất
chữ A
ngơ ngác
chữ A
môi run hạnh phúc.

26-02-1982
(mùng 3 tháng 2 Nhâm tuất)

Huyên muốn mình phải khởi đầu lại một lần nữa, khởi đầu một kiếp sống khác, như một đứa trẻ bắt đầu học bảng chữ cái, chữ thứ nhất là A.
Như mọi vùng trời cao nguyên khác, ven hồ Xuân Hương ở Đà Lạt thường có những cơn mưa sương bắt chợt, xen lẫn những thoáng nắng cũng bắt chợt như thế. Thoáng mưa sương, thoáng nắng vàng, rất hư ảo. Thoáng nắng ấy trên đôi mắt của một cô gái nào đó, như thể niềm vui hư ảo bất ngờ. Trong khi đó, quanh cô gái là khung cảnh của hồ Xuân Hương nước xanh màu rêu, rong rác nhớp nhúa. Đó là hiện thực. Niềm vui hư ảo kia là có thực hay hồ nước dơ bẩn vì bị bỏ bê, chưa được vét lọc kia là có thực? Niềm vui siêu vượt, thoát li thực tại đáng buồn? Lãng mạn có thực hay hiện thực tả chân có thực? Có thực chăng lãng mạn bất chấp bối cảnh hiện thực?
Huyên hoang mang và chệch hướng, như một kẻ đi lạc giữa thực tại cuộc đời. Anh bẻ bút, thề không làm thơ nữa. Nhưng có thực sự là Huyên đã tự ý chấm dứt đam mê sáng tác thơ, anh cũng không rõ. Huyên cũng không rõ có thực hay không, về thời gian hai năm nào đó. Có phải là hai năm trải qua hai vùng đất khai hoang lập ấp được gọi là “kinh tế mới”? Hai năm không xác định ấy, có phải anh đã thâm nhập vào thực tế xã hội để gom nhặt những giọt nước mắt khổ đau, đói khát, nỗi niềm hờn ghét, oán hận, để mong “mua bán, trao đổi” chất liệu đó, sau khi đã chuyển hoá thành hình tượng thơ ca. Trong khi cả nước đang phê phán, khắc phục di chứng maoist, có thực chăng những kẻ bảo thủ chủ nghĩa Mao đã thu thuế, lại là “thuế lương tâm” của “gã lái buôn” chất liệu đời bi hận, chế biến thành thơ ca lóng lánh? “Lời lãi” anh thu được chỉ là hư vô! Có thực chăng? Có thực hai năm nào đó anh đã thôi làm thơ? Nói không, nhưng thật ra, Huyên vẫn làm thơ tuyên truyền, đánh đồng “hiện thực hiện có” bằng “hiện thực nên có”. Làm thơ tuyên truyền theo nghĩa vụ khai hoang lập ấp cũng là làm thơ, và mặc dù đó là thơ có ích, có tác dụng thực tế, nhưng không phải là làm thơ đúng nghĩa, sáng tạo thơ ca đích thực chăng?
Để rồi, trong không gian hình thành từ dư âm của trận mưa dài thảng thốt, bất thường từ “Đêm cuối năm”, trong cơn say bởi men rượu, Huyên nhận ra niềm vui hư ảo, hư ảo như thoáng nắng trên mưa sương ven hồ Xuân Hương nhớp nhúa, hôi hám, lại trở về trong giấc chiêm bao đầy mưa. Niềm vui hư ảo không phải trên một đôi mắt mà cả nghìn, cả triệu đôi mắt. Một trời lãng mạn với bao thoáng chốc hân hoan hư ảo giữa đời thực, hiện về trong chiêm bao. Nhưng mưa chiêm bao ấy chảy ròng trên khuôn mặt chính anh hay khuôn mặt ai xa lạ, anh không rõ. Khuôn mặt ấy rũ ập xuống bàn như một tấm khăn sũng nước. Khuôn mặt ấy ngẩng lên, sửng sốt nhìn hai bàn tay mình, hai bàn tay trắng, đã khánh kiệt vốn liếng sự nghiệp. Thơ ca “hiện thực nên có”, “hiện thực ‘phải đạo’” đã phá sản, thì đã đành chăng? Thứ thơ ca lãng mạn sáng, bất chấp bối cảnh hiện thực đen, một cách duy ý chí, cũng đã thực sự phá sản chăng? Có thực chăng giấc mơ men say đầy thảng thốt ấy?
Huyên cảm thấy anh đã hoàn toàn phá sản, khánh kiệt, bởi vốn liếng thơ ca của anh hoá ra chỉ là vàng mã hư vô, sự nghiệp văn chương của anh chỉ là giấy rác vô giá trị.
Nhưng Huyên không buông xuôi, vứt bỏ cuộc đời mình. Anh lại bắt đầu một kiếp sống mới, như một đứa trẻ bắt đầu con đường chữ nghĩa của nó bằng chữ thứ nhất trong bảng chữ cái. Huyên cảm thấy anh hạnh phúc trong sự thoát kiếp, đổi đời lần này, 1982.
Mặc dù viết với tâm trạng khủng hoảng về phương pháp sáng tác, gồm cả trong đó phương thức phản ánh hiện thực, và chỉ về phương pháp sáng tác mà thôi, ở một thời điểm không thật bình tĩnh, Huyên không ngờ trước được bài thơ “Lại bắt đầu từ chữ cái thứ nhất” (hay “Lại tập đánh vần”) là nguyên nhân chính dẫn đến tai hoạ trong cuộc đời một giáo viên, một người làm thơ là anh. Và cả điều này nữa, liệu có đúng là vậy không? Huyên cũng không rõ.

3

Dáng người của anh Nguyễn Huynh không thể lẫn với người nào khác. Quả là đúng rồi, chính anh Nguyễn Huynh. Anh ấy đang cỡi chiếc xe Honda nữ, được sản xuất từ những năm sáu mươi, chạy vượt qua cổng trường. Và chừng như thấy ở các phòng học không khí học tập, giảng dạy nghiêm túc quá, anh ngừng xe, tắt máy giữa sân trường, dắt xe đi bộ đến văn phòng. Đang ngồi bên bàn nước, Huyên vội bước ra ngay để đón anh:
– Anh vừa từ Đà Lạt về đây? Thật bất ngờ.
– Ừ, đi chiếc Honda này cũng tiện.
– Anh kiếm ra xăng trong giai đoạn này là tài lắm.
Anh Nguyễn Huynh cười.
Gần đây Huyên đã chuyển sang phòng lồi bên phải của nhà tập thể, nơi trước đây là phòng của anh Ích, để cùng ở chung với Bùi, một giáo viên vật lí mới về trường. Huyên dẫn anh Nguyễn Huynh về phòng của mình. Sau đó, hai anh em cùng xuống chợ Tùng Nghĩa để mua một ít thức ăn. Anh Nguyễn Huynh vốn là người tháo vát ngay cả trong việc chợ búa này, và cả trong nấu nướng nữa, khi đã mang thức ăn về đến bếp tập thể. Bếp tập thể dạo này bệ rạc hẳn, không còn nền nếp như năm học trước. Bác Uy gái cũng đã xin thôi việc để lo làm cải chua ra bán ở chợ chồm hổm chiều, gần quán “Bít tất”. Bếp vẫn còn đỏ lửa than nhưng cô nhân viên mới tuyển tên Nhi đã xong việc của mình. Anh Nguyễn Huynh và Huyên tiếp tục bắc soong lên bếp ấy, sau khi làm cá, rửa rau ở thềm giếng bên cạnh. Đó là chiếc giếng phải sử dụng tay quay, vì có độ sâu ít ra cũng ba mươi mét.
Xong xuôi, Huyên và anh Nguyễn Huynh về phòng ở.
Dĩ nhiên là bữa cơm trưa hơi sớm so với thường lệ này có cả rượu. Chừng như anh Huynh không thể thiếu rượu được, và thói xấu này cũng lây sang cả Huyên, mặc dù Huyên không thể nghiện được loại chất cay này!
Thật ra, đó là bữa rượu thì đúng hơn, để còn xem thơ của nhau nữa.
Huyên không thể không đưa bài thơ mới nhất của mình, “Lại bắt đầu từ chữ cái thứ nhất”, cho anh Huynh đọc bằng mắt, vì phép lịch sự, không thể đọc to thành tiếng như ở nhà anh trên Đà Lạt. Vả lại, loại thơ này cũng khó để đọc lên bằng miệng, nghe bằng tai. Anh Huynh sửng sốt, đọc đi đọc lại mấy lần. Anh bảo đưa cho anh một bản chép tay, về lại Đà Lạt anh sẽ đánh máy chữ giúp cho.
Sau đó, cuộc rượu vẫn tiếp tục. Trên gương mặt anh Huynh, càng hiện rõ tâm trạng buồn bực, bức bối, đau đời vốn có ở anh.
Lúc tiễn anh Nguyễn Huynh lên lại Đà Lạt, có lẽ cũng đã ba giờ chiều. Nắng vẫn còn vàng ấm, chưa se lạnh.
– Huyên làm thơ như bài mới nhất vừa rồi, anh thấy sẽ phiền hà lắm đó. Không khéo Huyên sẽ về Huế chơi với Trần Vàng Sao! Huyên đừng tưởng là trong đám học sinh, trong cán bộ công nhân viên nhà trường, không có PA.25! – Anh Huynh cười, trấn an Huyên sau câu nói thật –. Nhưng đã sinh ra làm thằng làm thơ, viết văn thì phải chấp nhận tai hoạ. “Chữ tài liền với chữ tai một vần” mà!
Anh Huynh ngồi lên xe, nổ máy.
– Huyên nhớ Trần Vàng Sao không? Tay đó khổ một đời vì thơ! Anh cũng vậy, Huyên cũng vậy. Mỗi đứa khổ một cách.
– Vậy thì, anh đừng đánh máy chữ bài thơ đó nữa. Anh xem một mình thôi nghe!
Huyên cảm thấy hơi sợ trong lòng, mặc dù biết nội dung bài thơ chẳng có gì phải đáng sợ. Huyên những muốn lấy lại bài thơ Huyên đã chép tay đưa cho anh Huynh giữa cuộc rượu vừa rồi, vì với bản tính nghệ sĩ, biết đâu anh ấy vô tư, hứng chí cho người này, kẻ khác xem. Nhưng anh Huynh đã nói:
– Huyên yên tâm. Anh lên Đà Lạt lại đây!
Anh Huynh chìa tay. Huyên bắt tay anh. Hai bàn tay siết chặt, tin cậy. Ngay sau đó, anh Huynh rồ ga, vọt đi trên quốc lộ 20.
Khi quay bước vào sân trường, Huyên tự nghĩ, chẳng có gì đáng sợ cả, ở bài thơ ấy. Có lẽ nó không thể đăng trên báo, in vào sách được, trong bối cảnh hiện nay, nhưng hoàn toàn không có một chi tiết, từ ngữ nào có thể làm nhức mắt PA.25. Ờ, cũng có thể có, ở ít câu chữ cường điệu đen, tạo ấn tượng mạnh, nhưng Huyên không quả quyết đó là thực, để rồi kết thúc vẫn là khởi đầu một giai đoạn sáng tác với ý hướng sáng tạo mới: “… những gì là có thực? / tôi ngọng nghịu hỏi mình như trẻ thơ / và tập đọc lần thứ nhất / chữ A / ngơ ngác / chữ A / môi run hạnh phúc”.
Phải đặt mỗi chữ, mỗi hình ảnh thơ trong chỉnh thể bài thơ, không nên tách ra để suy diễn. Hỡi những kẻ có quyền lực, những kẻ có chức năng theo dõi, hãy hiểu giúp điều đó cho bao người làm văn chương! Huyên muốn nói như vậy. Nhưng Huyên lại chợt giật mình khi thấy nấm đất trồng hoa cỏ giữa sân trường, Nho cho học sinh đắp và ươm tưới, để tạo cảnh quan như thể công viên, sao từa tựa nấm mộ Đạm Tiên!

4

Những ngày sau đó, Huyên nghĩ đến Hồng Vàng, và tự hỏi: liệu Hồng Vàng sẽ cảm nhận như thế nào nếu đọc được bài thơ ấy. Chẳng phải là Huyên và cả Hồng Vàng nữa, từng mơ ước là văn chương nước mình sẽ được vận động, phát triển đúng với quy luật hơn đó sao! Chẳng phải Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến và cả Tố Hữu, quan trọng nhất là Tố Hữu với bài thơ “Đêm cuối năm”, đã mở ra một trào lưu sáng tác mới mẻ, chân thực hơn trước đó sao! Đúng rồi, chân thực. “Đêm cuối năm” không hay, không mới về thi pháp, nhưng chân thực hơn vì đời thường hơn, con người hơn – con người có khi đối diện với cái tôi cô đơn của chính mình, chứ đâu phải cứ luôn luôn là con người của tập thể.
Ở nước ta, sự thể là thế. Mỗi người sáng tác không thể là một chủ thể sáng tạo độc lập có tính mở đường. Tất cả phải chờ ở “tiếng chim đầu đàn”! Nay “tiếng chim đầu đàn” đã phát tín hiệu đổi mới, cho phép mỗi cánh chim có những phút tách khỏi đội hình tập thể, sống với cõi riêng của nó! Không biết đó là sự đổi mới với ý thức tự giác, thấy cần phải đối diện với cái tôi riêng tư, hay là do sức ép từ bên dưới tác động ngược lên trên, thể hiện ở Tố Hữu từ “Đêm cuối năm”, 31-12-1981!
Ở nước mình, sự thể là thế! Bất kì sự sáng tạo đột phá nào cũng cần đến những người bảo trợ tinh thần, những người chịu làm tấm mộc che đỡ. Người ta cũng không muốn những kẻ không đáng tin tưởng lắm về lí lịch lại dám làm Phùng Quán, Hữu Loan, Boris Pasternak, Solzenitsyl (Solzenitsin), thậm chí chỉ là người cầm bút phản biện với ý thức xây dựng! Thật ra, Huyên chỉ là người làm thơ bị khủng hoảng về phương pháp sáng tác mà thôi!
Huyên cũng muốn chép bài thơ “Lại bắt đầu từ chữ cái thứ nhất” để gửi Hồng Vàng, nhưng rồi anh ngại phiền hà, rối rắm cho cô sinh viên năm thứ nhất ấy.
Thầy giáo Huyên cũng có ý đợi anh Lê Thừa Ích, hiệu trưởng, nói cảm nghĩ của chính anh về bài thơ thế thái nhân tình của Tố Hữu, nhưng từ trước Tết Nguyên đán mãi đến sau Tết hơn hai tháng, anh Ích vẫn không nói gì. Anh ấy là một người kín kẽ!
Huyên cảm thấy không dám chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp, cho dù đã có những kỉ niệm phấn trắng bảng đen, những lần ngồi quán cà phê, dăm cuộc rượu nhỏ rất thâm tình với nhau:

“ĐÊM UỐNG RƯỢU Ở TRƯỜNG, DẶN NHAU – 1982

một dĩa cải chua, vài con khô cá
chạy được chai rượu đầy, sẵn cái chén mẻ, cũng hay!
ba thằng giáo chuyền tay vầng trăng nứt
nhớ nước mắt đừng rơi, xin ấm góc trời này!”

Huyên làm thơ về nhóm bạn giáo viên của mình với ước muốn xin giữ ấm góc trời dạy và học. Đó cũng chính là lí do để Huyên không chia sẻ với đồng nghiệp bài “Lại bắt đầu từ chữ cái thứ nhất”, mà chỉ chia sẻ với bạn văn chương là anh Nguyễn Huynh.
Thậm chí, bài thơ này của Huyên, anh cũng cất giấu dưới đáy va li, sợ Bùi ở cùng phòng, tình cờ đọc thấy. Huyên bắt đầu có cảm giác lo sợ của một người cầm bút cất giấu bản thảo… quốc cấm! Trạng thái tâm lí thường vượt trên mức của sự tự nhận thức, mức tình trạng thực tế một cách thái quá! Đầu óc tự biết là bài thơ ấy chẳng có gì đáng ngại, thế mà cũng lo sợ đến hoang mang, tự đốt đi rồi tự chép lại, sợ cả bạn cùng phòng!
T.X.A.
TP.HCM., 02:17, 16-03 – 11:40, 17-03 HB13 (2013)

ĐÃ GỬI TTTĐT. HỘI NHÀ VĂN TP.HCM. (17-03 HB13 [2013])
& TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG (17-03 HB13 [2013])

https://txawriter.wordpress.com/2013/03/18/hau-chien-khong-rieng-ai-vi-tiep-theo/

Chương I:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-i

Chương II:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-ii

Chương III:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iii

Chương IV:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iv

Chương V:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-v

Chương VI:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-vi

Xem tiếp:
“Hậu chiến, không riêng ai” — tiếp theo — (VII)

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI (V) – tiếp theo

Posted by Trần Xuân An trên 14.03.2013

hidden hit counter

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương V
Trần Xuân An

1

Năm học 1980-1981 đã kết thúc. Kì thi tốt nghiệp phổ thông trung học đang bắt đầu. Huyên cùng một số đồng nghiệp khác có tên trong danh sách giám khảo, nên đã có mặt tại Đà Lạt ngay sau khi học sinh đã thi xong tại bảy trung tâm thi, bốn ở bốn huyện (Đạ Huoai chưa có lớp mười hai) và ba ở thành phố tỉnh lị của Lâm Đồng.
Đáp án đã được đánh máy thành nhiều bản, mỗi giám khảo đã nhận một bản. Trưởng phòng phổ thông, anh Nguyễn Công, kiêm cán bộ chỉ đạo bộ môn ngữ văn, hướng dẫn tổ giám khảo thảo luận để nắm chắc thang điểm. Được phân công làm tổ trưởng giảm khảo bộ môn ngữ văn, Huyên cũng phải chấm bài của thí sinh như mọi giám khảo khác, chỉ cộng thêm một công việc là kí nhận bài thi đã được rọc phách và giao nộp sau mỗi buổi chấm. Dĩ nhiên là phải chấm chéo, giám khảo vốn là giáo viên trường này phải chấm xấp bài của thí sinh trường kia. Tên trường cũng đã được mã hoá để tránh trường hợp giao trùng, chấm trùng.
Sau ba ngày, đã hoàn tất công đoạn chấm. Việc vào phách và lên bảng điểm đã có ban chỉ đạo hội đồng chấm thi cùng một nhóm giáo viên được điều động phụ trách. Nhưng cũng nhờ là tổ trưởng, nên khi kí tên giao nhận, nhìn thấy bảng điểm bộ môn có đầy đủ tên họ, trường thi của thí sinh, Huyên biết được điểm thi ngữ văn Hồng Vàng đã đạt được. Con số 7 không phải là cao so với điểm tối đa là 10, nhưng Huyên thấy chỉ có hai thí sinh đạt được điểm ấy trên toàn tỉnh. Hai bài thi của hai thí sinh đó, Hồng Vàng và một học sinh ở Đạ Nông, trường Huyên giảng dạy, được tổ giám khảo đặc biệt lưu ý, cán bộ chỉ đạo bộ môn cũng xem kĩ. Ngoài ra, Huyên không biết những môn còn lại, Hồng Vàng và học sinh Đạ Nông ấy đạt được bao nhiêu điểm.
Đó là niềm vui của Huyên, nhưng thật ra, chỉ là niềm vui ít ỏi trên nỗi buồn to lớn: đa số bài thi còn lại chỉ ở mức điểm trung bình và dưới trung bình. Tình trạng của bộ môn ngữ văn Việt trầm trệ như thế, không phải riêng ở Lâm Đồng mà trên cả nước! Một phần, do cách lập đáp án và cách chấm điểm. Nhưng phần lớn là do học sinh không thích học ngữ văn. Học sinh không thích học ngữ văn lại chính do bảng phân phối chương trình, quy định nội dung phân môn giảng văn có quá nhiều tác phẩm phục vụ tuyên truyền trong thời chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, trong khi đất nước đã thống nhất được sáu năm, Nam và Bắc đã thấy rõ nhau, hiểu rõ nhau… Trường hợp đạt được điểm 7 cũng đã là quý hiếm!
Sau buổi họp tổng kết đợt chấm thi và bữa ăn liên hoan, cùng với đồng nghiệp về lại khách sạn, thực ra chất lượng chỉ như phòng trọ, phòng nghỉ, do Sở Giáo dục lo liệu, bố trí, Huyên biết mình còn có một buổi chiều rỗng. Ngày mai, Huyên đã phải lên xe vào Thành phố Hồ Chí Minh để mua vé tàu lửa về nghỉ phép hè tại quê nhà Quảng Trị, vì đèo Ngoạn Mục trên đường xuống Phan Rang trước khi ra ga lớn Nha Trang, là một con đèo rất đẹp mắt nhưng khá nguy hiểm, nhất là ở thời điểm gần đây, đường đèo ấy có nhiều đoạn đã sạt lở và xe khách cũng thiếu phụ tùng để thay thế, tu sửa. Vé xe về TP.HCM. cũng đã được Sở Giáo dục đăng kí mua giúp rồi. Buổi chiều trống rỗng càng trống rỗng hơn, khi một vài đồng nghiệp đi thăm nơi này, chỗ khác. Huyên cùng một vài người bạn còn lại rủ nhau đi đến một quán cà phê nào đó để nhâm nhi, ngắm đường phố trung tâm Đà Lạt và hồ Xuân Hương.
Khi ngồi trong quán cà phê, Huyên hồi ức lại buổi sáng anh cùng Ngàn đã gặp hai chị em Hồng Vàng, Cúc Trắng trên đường ven hồ Xuân Hương kia, và đã cùng nhau đến quán Thanh Thuỷ. Mới đó, cũng đã hơn ba tháng trôi qua!
Thấy Huyên ngồi trâm ngâm, Chu nói:
– Năm học này, trường mình chỉ có anh Dương Sĩ Cảm và Huyên được viết báo cáo thành tích! Mình thấy anh hiệu trưởng Đặng Đắc San đi tìm hai ông để thúc nộp gấp mà! Phải vậy không?
Huyên gật đầu:
– Cho vui vậy thôi. – Huyên khiêm tốn, nói lảng đi –. Nghe đâu môn vật lí của Chu, trong kì thi này, học sinh đạt điểm cao cũng nhiều?
– Ừ, đề cũng không hóc lắm. – Có lẽ Chu đã biết tình trạng điểm môn ngữ văn, nên nói thêm –. Môn xã hội các ông bì sao được với những môn tự nhiên!
Huyên đành cười trừ:
– Đúng là học sinh thích học các môn tự nhiên hơn… Và cũng vì các môn xã hội có nhiều vấn đề phức tạp quá, kể cả đáp án, thang điểm, cách chấm… – Huyên nói, nét mặt và giọng điệu không hào hứng lắm –. … Nhất là ở môn ngữ văn của bọn mình, phần lớn học sinh phạm lỗi diễn đạt, đặc biệt là ngữ pháp và chính tả… Không thể có học sinh đạt được điểm tuyệt đối như các môn tự nhiên của các ông được…
Uống cạn những giọt cà phê cuối cùng, Chu nhấp một ngụm trà rồi đứng dậy, bắt tay Huyên và bạn bè. Huyên biết Chu sẽ đến thăm nhà cô giáo Hậu cùng nhóm vật lí. Ngồi thêm một lúc, Huyên có ý định sẽ đến thăm một nhà thơ quen biết với Huyên. Anh ấy đã thu thập đủ thơ của những tác giả ở Lâm Đồng này, trong đó có Huyên, và đang xin giấy phép, kinh phí để ấn hành một tuyển thơ chung: “Như anh em một nhà”. Năm ngoái, cũng đã xuất bản được một tập thơ nhiều tác giả như vậy. Nhan đề của bài thơ Huyên viết đã được chọn làm nhan đề chung cho cả tập: “Đất gọi thầm” (*). Huyên chào các bạn, nói Huyên đi thăm một người quen, rồi lững thững bước ra đường một mình, trong khi các đồng nghiệp còn muốn ngồi nán lại để nghe nhạc và ngắm phố phường, phong cảnh hồ Xuân Hương thơ mộng.
Tuy thế, không hiểu thế nào Huyên lại có ý định sẽ đến nhà Hồng Vàng trước khi đến nơi ở của nhà thơ quen biết ấy. Huyên thầm nghĩ, đúng rồi, nếu đến nhà Hồng Vàng theo địa chỉ Huyên còn nhớ được, ở lá thư hồi tháng ba vừa rồi Hồng Vàng gửi cho anh, Huyên phải đi trước khi chiều xuống. Đó là một nơi Huyên chưa đặt chân tới bao giờ.
Huyên hỏi đường qua một người tình cờ gặp, và lại chậm rãi bước tiếp. Đường phố Đà Lạt là những con dốc, vươn dài giữa những khu nhà xây cất trên những triền đất nghiêng nghiêng, duỗi mình giữa những đồi thông xanh tươi suốt bốn mùa. Huyên bước, nhưng vẫn cảm thấy có gì đó thật vướng víu trong lòng. Dẫu sao Hồng Vàng vẫn còn là học sinh phổ thông trung học, mặc dù đã qua kì thi tốt nghiệp, đã mười tám tuổi rưỡi. Dẫu sao Huyên cũng là thầy giáo, mặc dù mới bước vào tuổi hai mươi lăm. Huyên bước, nhưng cảm thấy mình nên quay gót, rồi vẫn cứ bước tới.
Cuối cùng Huyên cũng đi đến đúng số nhà và tên đường. Ngôi nhà của Hồng Vàng đã ở trước mặt anh. Để vờ như ngẫu nhiên, vô tình, Huyên chỉ thoáng nhìn trong khi đang bước. Qua cổng nhà, lẽ ra Huyên đứng lại, tìm nút bấm chuông hay gọi khẽ tên Hồng Vàng, nhưng Huyên lại bước thẳng.
Đến lúc đi hơi xa một quãng, Huyên mới nhận thấy ánh nắng chiều đã ngã bóng, trời se lạnh hơn nhiều. Anh mặc lại chiếc áo khoác va lua đang vắt trên vai. Huyên lại phải hỏi đường để đến nhà người bạn thơ, lớn hơn Huyên khoảng mươi lăm tuổi.
Huyên mỉm cười một mình, thấy mình ngớ ngẩn với tâm trạng chẳng khác nào một cậu học trò cuối bậc trung học! Nhưng cũng không hoàn toàn như vậy, chút vướng víu chính, Huyên tự hỏi, phải chăng vì anh đã là thầy giáo, Hồng Vàng vẫn còn là học trò phổ thông!

2

Huyên đã từ Quảng Trị quê nhà vào lại Đạ Nông, sau hai tháng nghỉ phép hè.
Chiếc xe khách TP.HCM. – Đà Lạt, khoảng hai mươi bốn chỗ ngồi, có lẽ là một trong ít chiếc xe tốt nhất còn sót lại, đã đỗ ở lề đường, sát quán “Bít tất”, phía đối diện với cột cây số 270. Huyên xuống xe với chiếc xách cầm tay.
Khi xe chạy vụt đi, Huyên thấy khung cảnh quanh Trường Phổ thông trung học Đạ Nông trước mặt anh khác với chính nó cách đây hai tháng. Lúc Huyên rời trường, ngô mới gieo hạt, cao mới nửa bắp chân. Bây giờ đang là mùa mưa, những khoảnh đất trồng ngô hai bên và sau nhà ở tập thể của trường lại đang xanh ngắt, cao ngang ngực, lộ rõ dấu vết đã được thu hoạch trái đợt đầu.
Huyên bước chéo qua đường để vào cổng trường. Sân trường buổi chiều vốn đã vắng lặng, nay đã lưa thưa mọc lên những vạt cỏ dại vì thiếu bóng dáng học sinh trong dịp nghỉ hè, trông càng hoang vu hơn. Nhưng Huyên vẫn tin chắc ở dãy nhà tập thể giáo viên ít ra cũng đã có mặt dăm người. Anh bước vào lối đi nhỏ giữa văn phòng và dãy phòng học cũ.
Huyên rất vui mừng khi thấy ở trước ngôi nhà nhân viên, chị Ninh đang bồng con đứng bên chồng, cười chào:
– A! Thầy Huyên mới vào! Thầy có một lá thư bưu điện mới đưa tới đây!
Huyên đến gần:
– Chào anh chị! – Và Huyên rút từ xách tay chút quà nhỏ, dúi vào tay cháu bé –.
Chị Ninh vào nhà, quay ra ngay với phong thư.
– Cảm ơn chị Ninh nghe!
Huyên nhận ra ngay nhờ bốn chữ viết tắt: L.T.H.V.. Thư Hồng Vàng! Nhận thư xong, Huyên nói:
– Xin chào anh chị.
Huyên bước về phía nhà tập thể. Phòng của Huyên và Chu là phòng giữa của dãy nhà. Chu vẫn chưa có mặt. Huyên tìm chìa khoá trong xách tay và mở cửa phòng, bật đèn. Phòng ở vẫn như hai tháng trước đây.
Việc đầu tiên là Huyên mở thư để đọc.
“Đà Lạt, ngày 10 tháng 8 năm 1981
Kính gửi: Thầy giáo Nguyễn Phan Huyên
Thưa thầy,
Em chỉ dám viết ngắn gọn để thưa với thầy về hai kì thi của em.
Em đã đỗ kì thi tốt nghiệp phổ thông trung học vừa rồi với số điểm là 32 (bốn môn thi). Và em cũng đã đi TP.HCM. để dự thi vào Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm ở đó. Mức làm bài, em tự đánh giá là có khả năng đỗ.
Dẫu đỗ vào đại học hay không, em cũng đã thấy mình đang bước vào năm thứ nhất lứa tuổi trưởng thành, chứ không thể cứ mãi là bé bỏng.
Nói thế, nhưng xin thầy cứ hi vọng là em sẽ đỗ như em đang hi vọng. Và cũng không còn cảm thấy nữa, mà chắc chắn là em đã bước qua rồi tuổi học trò trung học.
Em rất mong được gặp lại thầy.
Kính chúc thầy luôn vui khoẻ.
Em,
L.T.H.V.”

Đây là lá thư thứ hai Huyên nhận được từ cô học trò Hồng Vàng. Cũng như lần trước, niềm vui tràn ngập lòng anh. Trong niềm vui đó, Huyên thử tính nhẩm, và thấy điểm 7 môn ngữ văn lại là điểm thấp nhất trong bốn môn, nhưng Hồng Vàng vẫn yêu thích môn ngữ văn nhất. Anh biết, điểm ngữ văn phải cộng thêm từ 1 đến 2 điểm dung sai, hay có thể gọi là điểm đặc thù bộ môn, nếu cần thiết phải so sánh điểm với các môn khác: số 7 đó có thể bằng 8 hay 9. Và dù sao, điểm 7 Hồng Vàng và một học sinh Đạ Nông đạt được cũng đã vượt xa các điểm trung bình và dưới trung bình của tất thảy các thí sinh khác trong kì thi.
Huyên kéo ghế, ngồi vào bàn viết, và viết ngay ý tưởng đó để kịp gửi thư ngay cho Hồng Vàng trong chiều nay, những mong Hồng Vàng sẽ được chút nào khích lệ, động viên. Sau đó, anh đi quanh nhà tập thể giáo viên để xem thử những ai đã có mặt. Huyên rất vui khi thấy anh Văn, giáo viên địa lí, ở một trong năm phòng đơn phía sau. Một cái bắt tay chào nhau thật chặt.
– Tôi đi ngay lên bưu điện huyện, lát nữa về. Sau đó anh em mình ra quán 99 nghe!
– Làm gì phải đi bưu điện gấp vậy?
Huyên cười, nói có việc cần. Và Huyên ra nhà chị Ninh để mượn xe đạp.
Huyên phải vượt vài ba con dốc mới đến nơi. Mơ hồ tiếng thác Liên Khương theo gió chiều vọng đến, khi anh bỏ phong thư vào thùng thư chính.

3

Anh Văn buông cây đàn ghi ta khi thấy Huyên xuất hiện ở cửa sổ, với tay lấy chiếc áo len màu xanh đậm, cầm ở tay, và bước ra.
Hai người bạn đồng nghiệp cùng đi đến quán 99 như đã hẹn.
Dưới tán cây xoài thấp nhưng xum xuê lá, tiếng nhạc hoà tấu êm nhẹ từ dàn loa trong nhà sàn vọng ra, hương cà phê phin thơm ngát.
Khoảng thời gian cuối năm học vừa rồi, những giáo viên hay ra ngồi ở quán 99 này thường yêu cầu chủ quán cho nghe đi nghe lại bài “Quán bên đường”, một bài thơ được ghi là khuyết danh tác giả do Phạm Duy phổ thành nhạc. Lần này, anh Văn đề nghị Huyên vào quầy để nhờ cô con gái của chủ quán cho nghe lại bài ấy.
“… Rồi em hỏi anh làm chi?
– Cầm bút, để viết ngày đêm…
– Viết gì?
– Đời thối, phải nói là thơm. Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm…
… Em hỏi nghệ thuật là chi?
– Là đui, là điếc, là câm, mà đi…”.

Huyên lại châm một điếu thuốc lá, ngồi im lặng lắng nghe. Từ những năm trung học, anh đã nghe bài hát này. Bẵng đi một quãng thời gian dăm bảy năm, sống trong tâm nguyện làm thơ vì đất nước, với nhãn quan mới, Huyên hầu như quên mất. Gần đây, Huyên mới thấy bài thơ đã trở thành ca khúc ấy có phần gần gũi với bài báo “Viết về chiến tranh” của Nguyễn Minh Châu, bài tiểu luận về “chủ nghĩa ‘phải đạo’” của Hoàng Ngọc Hiến, tác giả đã xem “phải đạo” chính là đặc điểm của văn học vài thập niên qua ở Miền Bắc và hiện nay trên cả nước. Tất nhiên là “Quán bên đường” đau hơn rất nhiều, vì hình ảnh, câu chữ cụ thể và trực tiếp hơn, nên xoáy sâu hơn vào trái tim người nghe. Nhưng nó là tiếng kêu đòi ở Miền Nam, dưới chế độ Ngô Đình Diệm, đã bị lật đổ từ 1963, được phổ biến rộng rãi sau năm 1963 ấy, nên không nổ vang, chấn động mạnh như hai bài của Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, trong hai năm 1978 và 1979, chưa xa lắm với năm 1981 này. Tất nhiên hai bài ấy vẫn thể hiện tinh thần trách nhiệm, không chứa đựng mục đích chính trị phản động bên ngoài văn học.
Bắt chợt, xuất hiện ngoài cổng quán bóng dáng của Nho. Nho cười thật tươi, bước vào, ngồi trên khúc cây dựng làm ghế bên cạnh Huyên:
– Mình xuống Tùng Nghĩa, vừa lên lại trường, nghe anh em nói Huyên mới vào, đã cùng anh Văn ra đây!
– Rất vui khi lại gặp nhau!
Cô gái tiếp viên từ nhà sau bước ra, hỏi thầy giáo Nho dùng thức uống gì.
– Vẫn “Quán bên đường”! – Nho phớt tỉnh –.
– Không. Em hỏi thầy uống gì?
– Vẫn “Quán bên đường”! – Nho lại vờ phớt tỉnh –.
Cô gái bật cười, đứng chờ câu trả lời của Nho. Huyên phải “phiên dịch”:
– Ông thầy này nói cho một cà phê phin và nghe lại hai lần bản “Quán bên đường”.
Nho bị bắt buộc phải đính chính:
– Không, một chanh rum và hai lần “Quán bên đường”.
Huyên nói:
– Đúng ra phải là cà phê mới “Đắng và ngọt” như tên nguyên tác của nhà thơ tác giả chứ! Nhưng ông muốn chanh rum: chua, cay và ngọt! Cà phê tỉnh người, còn chanh rum say người.
– Nóng người chứ! – Nho nói với tiếng cười dài –.
– Nhưng có chanh, nên dã rượu ngay, và nước đá, làm hạ nhiệt tức thì. … Nhè nhẹ thôi mà… Có điều, thôi, đừng diễn dịch mà mang hoạ vào thân. – Huyên nói, cũng cười với hai người bạn –.
Nói thế, nhưng thật ra Huyên biết, anh Văn dạy địa lí và Nho dạy sinh vật, dù yêu văn chương nghệ thuật nhưng cũng không đau bằng những ai đang giảng dạy văn chương như Huyên. Huyên lại là người làm thơ nữa, nên nỗi đau nhân lên gấp nhiều lần.
– Nếu Nho thích, tối nay, qua phòng mình, mình sẽ hát hầu Nho bài hát đó và cho Nho chép lại cả nhạc lẫn lời. – Anh Văn nói –. Nhưng chỉ đề tên tác giả thơ là Minh Phẩm (Trang Thế Hy) mà thôi. Trang Thế Hy là nhà thơ mà ở chế độ cũ bị ghi là khuyết danh…
– Biết rồi! Trang Thế Hy là nhà thơ cách mạng thì lo gì. – Nho nói –.
– Nên cứ hát và cứ chép… – Anh Văn cười thành tiếng –. Nhạc sĩ bây giờ lại bị khuyết danh!
Huyên mỉm cười, khi thầm nghĩ tiếp, có thể kể thêm, sau Trang Thế Hy lại có Trần Quang Long, cũng đều thuộc giới cầm bút cách mạng Miền Nam. Nhưng ở Miền Bắc, giữa những năm 50 đã có Phùng Quán… Lại cũng từ Miền Bắc, Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến mới cách đây chỉ hai năm và ba năm, nên chấn động, âm vang vẫn đang lan toả…
Trong khi hai người bạn vẫn tiếp tục nghe đến lần thứ ba bài “Quán bên đường”, Huyên lại nhớ đến Hồng Vàng với ước vọng và trăn trở khi đang chờ kết quả để dấn bước trên con đường văn chương đầy chông gai, thác ghềnh, sóng gió, với ý thức góp phần nhỏ tâm sức của mình để văn chương đích thực là văn chương. Thật chân. Thật thiện. Thật mĩ. Không phải là quá nhấn mạnh đến chức năng giáo dục chính trị nhưng lại đặt trên cơ sở có phần nào che đậy sự thật, thiếu trung thực về chức năng phản ánh, và vì thế, thô sơ, công thức, xơ cứng, không thể nâng cao được chức năng thẩm mĩ.
Hồng Vàng bỗng hiện ra trong trí tưởng Huyên thật dịu dàng, cương nghị, bản lĩnh.
Và Huyên cảm thấy đau lòng, xót tiếc khi nghĩ đến thí sinh thứ hai đạt điểm 7 môn ngữ văn, ở Trường Phổ thông trung học Đạ Nông này, trong kì thi tốt nghiệp vừa rồi, nhưng trước đó học sinh ấy đã vội buông xuôi, đành chấp nhận nộp hồ sơ dự thi vào đại học theo một chuyên ngành thuộc khoa học tự nhiên, chứ không phải văn chương!

4

Cũng như kì thi tốt nghiệp, đợt tuyển sinh vào lớp mười năm học mới, 1981-1982, điểm bộ môn ngữ văn, một trong hai môn thi không thể thiếu, vẫn thế. Rền rặt vẫn là điểm 4 và 5. Rất hiếm hoi ở mức điểm cao hơn. Riêng môn toán, điểm khá hơn nhiều, có nhiều học sinh đạt 9, 10. Anh trưởng phòng phổ thông cũng là cán bộ chỉ đạo bộ môn ngữ văn buồn bã than phiền: “Không những ở Miền Nam, mà cả Miền Bắc hiện nay học sinh cũng rất chán học ngữ văn!”.
Hoàn tất công tác chấm thi, Huyên lại có một buổi trống rỗng. Anh lại thả bộ tìm đến con đường và số nhà Hồng Vàng, nhưng rồi như cách đây hơn hai tháng, anh vờ như ngẫu nhiên, vô tình đi ngang qua. Thật lòng, nỗi vướng víu “thầy giáo – học trò trung học” vẫn không thể vơi bớt trong lòng Huyên.
Và cũng vậy, Huyên lại một mình đi đến nhà anh Nguyễn Huynh, một phóng viên đồng thời là một nhà thơ ít nhiều đã thân quen đối với Huyên.
Anh Huynh vốn rất nhiệt tình với bạn thơ. Anh nhất định mời Huyên phải ở lại dùng cơm tối với gia đình.
Khi vợ con và vài người thân trong gia đình anh đã dùng xong bữa, anh Huynh lại kéo Huyên lên căn gác gỗ nhà anh, với chai rượu trắng đang uống dở chừng, hai chiếc li nhỏ trong tay. Như thế là cuộc rượu vẫn lại tiếp tục.
Là một nhà thơ theo cha tập kết ra Bắc từ nhỏ, học tập, bắt đầu làm thơ ngoài đó rồi vào Miền Nam chiến đấu, hăng say sáng tác, nhưng hiện nay, thơ của anh Nguyễn Huynh lại đậm chất đau đời. Trong tâm trạng chung, nảy sinh trước cả khi hai bài chấn động của Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến xuất hiện công khai trên báo chí, anh Nguyễn Huynh có những bài thơ mà anh chỉ đọc theo cách “xuất bản bằng miệng”, hay mở bản thảo cho xem, khi gặp những người làm thơ thật sự tâm huyết với văn chương, con người, cuộc đời, đất nước. Trong khi đó, cho đến lúc ấy, Huyên vẫn đang thành khẩn trút hết tâm sức của mình để viết theo phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, với ý thức nâng cao tính nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng đến mức có thể, chứ chưa dám quay lui, nghiêng lại hiện thực phê phán như anh Nguyễn Huynh. Nhưng Huyên không thể viết đều như trước đây. Rõ ràng Huyên đang rơi dần vào bế tắc.
Có lẽ không có gì đau khổ hơn đối với người trút hết tâm huyết của mình vào thơ nhưng lại bế tắc. Hiện thực với bao điều trông thấy xám xịt, thì văn chương tươi hồng, làm sao viết nổi!
Anh Nguyễn Huynh không phải không sợ, nhưng nghĩ không ai có thể “chụp mũ” được anh. Còn Huyên, Huyên có một phần nỗi sợ sệt, rụt rè của Nguyễn Du trong người, mặc dù về bản chất nỗi sợ Nguyễn Du khác hẳn nỗi sợ của Huyên. Sống dưới chế độ cũ, Huyên đã mạnh dạn, thậm chí liều lĩnh công khai phê phán chế độ cũ bằng thơ ca, ấn hành tập san, lên diễn đàn đấu khẩu trước máy vi âm, để rồi đến Ngày Thống nhất, vui mừng hoà nhập vào chế độ mới, những tưởng tìm ra lối thoát. Thế nhưng, đến lúc này, Phan lại rơi vào bế tắc trong sự bế tắc hiện thời của cả giới cầm bút, trẻ tuổi cũng như lão thành. Nỗi sợ của Huyên là nỗi sợ trước một lệnh ngầm trừng phạt, mãi mãi bị treo bút. Chế độ cũ muốn cấm cũng không thể cấm viết, cấm lưu giữ bản thảo, cấm in. Nhưng chế độ mới hoàn toàn có thể cấm được. Vấn đề trớ trêu là ở đó. Không phải chỉ riêng đối với Huyên.
Có điều, ở anh Nguyễn Huynh, hầu như không hề thấy nỗi đau như Nguyễn Minh Châu, khi ngẫm lại những tác phẩm “viết về chiến tranh”. Nỗi đau, vì viết chưa toàn diện, mà còn phiến diện, “nên có” một cách “phải đạo”, trong thời chiến, về chiến tranh, không có ở anh Nguyễn Huynh. Thơ Nguyễn Huynh chủ yếu là phê phán sự ngự trị hiện tại của những gì đã già cỗi, như nếp hằn tư duy, cảm xúc cũ mèm chẳng hạn, không còn phù hợp với bước tiến của xã hội không đứng yên, mỗi phút, mỗi ngày.
Huyên vừa nhấp môi những li rượu nhỏ anh Huynh rót, vừa nghĩ ngợi, và nhận ra, rõ rệt hơn, phải chăng chính cái ẩn chứa đằng sau hai bài viết của Nguyễn Minh Châu (1978) và Hoàng Ngọc Hiến (1979) mới thực sự loé ra phương hướng hoà giải dân tộc sau bao nhiêu năm chiến tranh. Riêng trong nội bộ dân tộc: tuyên huấn chính trị, đã có bộ môn chính trị; sự thật lịch sử, đã có bộ môn sử; hãy để văn chương thật sự là văn chương của cả hai miền Nam – Bắc. Sách giáo khoa phải gồm những tác phẩm văn học hiện đại – cách mạng mang tinh thần đó, để học sinh hiểu rằng văn chương không phải là thứ chữ nghĩa “một chiều”, “hiện thực xấu nên có”“hiện thực tốt nên có” cũng tuỳ theo lập trường – chiến tuyến, chứ không phải lập trường dân tộc – đoàn kết. Báo chí, đài phát thanh cũng cần đến loại văn chương đích thực như thế, trong thời hậu chiến này, để tấm lòng công chúng mở ra, mát gió cảm thông, hoà hợp, chứ không phải đóng chặt lại, sợ gió lạnh buốt như dao nhọn hay gió ma trơi ảo ảnh xô gục mình xuống.
Huyên ngẫm nghĩ và đã bày tỏ điều đó với anh Nguyễn Huynh, và lại một lần nữa nhấn mạnh, để anh Huynh khỏi hiểu lầm: Văn chương hậu chiến vẫn phê phán thẳng tay bộ phận “tả đạo” ngoại xâm, thực dân, phát xít, đế quốc, bành trướng, nhưng đặc biệt, riêng trong nội bộ dân tộc, “chiến tranh ý thức hệ”, “nội chiến” (từ ngữ ở Miền Nam), cũng có thể gọi là cuộc chiến tranh “ít nhiều có tính chất nội chiến” gần đây, không thể không hoà giải như thế. Anh Huynh có lẽ hơi chạnh lòng. Suy nghĩ hồi lâu, anh nói:
– Cả Nguyễn Minh Châu lẫn Hoàng Ngọc Hiến bị “đánh” tả tơi, thì lấy đâu ra những tác phẩm “hiện thực hiện có” đúng nghĩa, và không phải “hiện thực ‘phải đạo’”, để đưa vào sách giáo khoa ngay lúc này, nhằm mục đích hoà giải, hoà hợp… Mà dẫu có trong ngăn kéo cá nhân, bí mật, thì ai cho phép xuất bản, ai cho phép đưa vào sách giáo khoa!
– Em cũng nghĩ hai bài của Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, phải chăng là do người ta sử dụng thủ thuật “dựng bóng, đập bóng” trên sân bóng chuyền. – Huyên nói –. Có phải thế không anh Huynh? Hay suy nghĩ của em đã lung tung lắm rồi?
Anh Huynh không trả lời, chỉ im lặng. Hồi lâu, anh mới bảo:
– Vì học sinh, với văn học trong nhà trường, và vì sáng tác văn chương ở giữa cuộc sống xã hội, nên cậu nghĩ như thế, là rất thực tế, có trách nhiệm… Rõ ràng là các cụ lão thành cấp trên chậm chuyển biến trước tình hình mới, bởi vì những ai có chức năng báo cáo lên trên thì đều báo cáo láo cả… Còn “nhà văn nói láo, nhà báo nói gian, dối trá tràn lan là do nhà giáo”!
– Như vậy chỉ còn biết tin vào biện chứng của cuộc sống, “cái khó sẽ mở ngõ cho trí khôn”. – Huyên cười buồn –. Dẫu sao cũng phải lạc quan, phải không anh Huynh?
Mấy phút trôi qua, anh Huynh lại nói thêm:
– Hoặc giả, nếu các cụ đã chuyển biến, nắm bắt được tình hình mới, thì cán bộ bên dưới vẫn còn nặng sức ì quán tính. Hai năm 1980, 1981 này, Quốc hội đã và đang phát động sáng tác quốc ca mới để thay thế quốc ca hiện hành, nhưng xem ra cũng chưa thay được!
Huyên cảm thấy đó là một vấn đề quan trọng:
– Vấn đề quốc ca, em không dám bàn đến đâu! Em chỉ nói về văn chương và việc giảng dạy ngữ văn Việt thôi.
Hai người uống hết những giọt rượu cuối cùng trong chai. Khi Huyên muốn từ giã, về khách sạn, nơi các giáo viên làm giám khảo được bố trí trong thời gian chấm thi tuyển sinh, anh Huynh quyết giữ chân Huyên. Huyên đành ngủ lại tại nhà anh Huynh, trên căn gác gỗ đó.
Có lẽ do rượu, giấc ngủ kéo thẳng một mạch đến sáu giờ sáng, lúc chuông đồng hồ báo thức reo lên.
Khi bước trong sương sớm lạnh buốt để về lại khách sạn, Huyên chợt thấy một cụm bông hồng vàng trên sân nhà ai đó, khiến anh đứng sững trong mấy phút.

T.X.A.
14:11, 11-03 – 17:00, 12-03 HB13 (2013)

(*)“Đất gọi thầm”“Như anh em một nhà”, Ty (Sở) Văn hoá – Thông tin tỉnh Lâm Đồng xuất bản, 8-1980 và 10-1981. Mãi đến tháng 10-1986, mới ấn hành được tập “Đà Lạt thơ” (nhiều tác giả), cũng do Sở VH.-TT. Lâm Đồng ấn hành. Trong đó, thơ Trần Xuân An được tuyển chọn một bài ở tập thứ nhất, ba bài ở tập thứ hai, một bài ở tập thứ ba.

ĐÃ GỬI TTTĐT. HỘI NHÀ VĂN TP.HCM. (14-03 HB13 [2013])
& TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG (14-03 HB13 [2013])

https://txawriter.wordpress.com/2013/03/14/hau-chien-khong-rieng-ai-v-tiep-theo/

Chương I:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-i

Chương II:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-ii

Chương III:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iii

Chương IV:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iv

Chương V:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-v

Xem tiếp:
“Hậu chiến, không riêng ai” — tiếp theo — (VI)

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI (IV) — tiếp theo

Posted by Trần Xuân An trên 08.03.2013

hidden hit counter

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương IV
Trần Xuân An

1

Dãy nhà tập thể giáo viên gồm năm phòng có hành lang và hai phòng lồi ở hai đầu. Năm phòng giữa ấy, mỗi phòng lại được ngăn ra bằng thưng gỗ, thành một phòng phía trước vừa đủ cho hai người ở và một phòng đơn, cửa mở ra phía sau. Phòng lồi phía tay phải được ngăn đôi, dành cho anh Ích, thư kí công đoàn, và anh Sắc, hiệu phó. Phòng lồi phía tay trái lại ngăn thành bốn, dành cho bốn giáo viên nữ.
Trong dãy nhà ấy, có một đặc điểm duy nhất là chỉ có hai khung cửa lớn của hai căn phòng kề nhau, lại vuông góc với nhau. Đó là phòng Huyên ở chung với một đồng nghiệp nam, tên Tinh, dạy sử và phòng lồi của hai cô giáo. Vì đặc điểm ấy, nên đã nhiều lần Huyên hoặc Tinh, Nguyện Hứa hoặc Hậu, suýt đụng đầu, vì tình cờ cùng mở cửa, bước ra cùng lúc.
Chính nhờ những lần suýt đụng đầu ấy, nên Huyên mới thấy được nụ cười hơi hé mở của Nguyện Hứa, một cô giáo cùng nhóm ngữ văn Việt, từ vài năm trước được đặt thêm biệt danh là “Tủ lạnh”. Thật ra, Nguyện Hứa bị oan bởi chữ “tủ”, vì cô không thô và thấp như những chiếc tủ lạnh thông thường, nhưng “lạnh” thì hẳn không sai. Nguyện Hứa ít nói, khi nói lại nhỏ nhẹ, lại ít cười, lúc cười, chỉ nhếch môi, và dáng dấp, cử chỉ rất nghiêm trang.
Một hôm, cũng tình cờ hai cửa phòng được mở cùng một lần, nhưng hai người chưa vấp vào nhau, nên Huyên nói đùa với Nguyện Hứa:
– May là chưa có “cuộc đụng đầu, chạm trán lịch sử” nào xảy ra!
Cô giáo trẻ khẽ cười, vì cách chơi chữ cường điệu của Huyên, và cũng im lặng, khẽ gật đầu chào, rồi bước xuống thềm.
Huyên chỉ biết đứng trước cửa phòng mình, nhìn theo một dáng người nữ trạc cùng tuổi, tóc buông dài trên lưng áo len màu đen, hai tà áo dài trắng hơi phơ phất theo bước đi chậm rãi, từ tốn.

2

Một ngẫu nhiên khác, hai lớp mười một B và A, năm ấy chưa xoá phân ban, Huyên và Nguyện Hứa đảm trách dạy môn ngữ văn Việt, lại kề nhau. Có thêm một nguyên nhân khác nữa. Nguyện Hứa còn là giáo viên chủ nhiệm của lớp mười một A, phải có mặt tại lớp mình phụ trách trong mười phút ổn định đầu mỗi buổi học – goi chung là mười phút ổn định lớp, nhưng thực ra là bao gồm việc điểm danh cùng nhiều thứ việc khác giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh trong lớp. Vì vậy, nên hình như mỗi lần Huyên có tiết nhất dạy tại lớp mười một B, đều thấy bóng dáng của cô giáo Nguyện Hứa ở lớp mười một A chung vách.
Một buổi sáng, ở tiết đầu, khi Huyên bước lên thềm, sắp vào lớp mười một B, rất bất ngờ, thấy Nguyện Hứa đi tới, đứng lại ở cửa, khẽ chào và nói:
– Tôi dự tiết “Sở kiến hành” của anh nhé!
Huyên mỉm cười:
– Vâng, xin mời cô.
Huyên nhường bước cho cô giáo Nguyện Hứa vào trước. Học sinh đứng dậy chào. Chỗ ngồi của giáo viên dự giờ luôn luôn là ở cuối lớp. Một học sinh đã nhường chỗ cho cô giáo. Huyên giới thiệu cô giáo với học sinh, mặc dù cô trò không xa lạ gì nhau, để cả lớp vỗ tay đón mừng như một thủ tục.
Đó là một tiết dạy rất tâm đắc của Huyên, vì bài thơ chữ Hán ấy của Nguyễn Du (với bản dịch ra tiếng Việt), khắc hoạ cảnh cùng khổ của bốn mẹ con trên đường đi, đối lập với cảnh giàu sang, thừa mứa của những kẻ quyền thế xa hoa, làm bật lên tứ thơ phê phán, tố cáo mạnh mẽ, và thắt lại ở hai câu kết khá táo bạo, thể hiện khát vọng dân chủ dưới chế độ phong kiến:
“Ai vẽ bức tranh này
Dâng lên nhà vua rõ”

Học sinh cũng tham dự vào việc phân tích, cảm thụ thơ, bằng những phát biểu khá sinh động.
Chuông reo, báo hết tiết. Huyên cảm ơn cô giáo cùng trong nhóm chuyên môn với anh đã dự giờ. Học sinh đứng dậy tiễn chân. Huyên cũng rời bục giảng, bước theo cô giáo Nguyện Hứa.
– Cảm ơn anh. Xúc động lắm. – Nguyện Hứa mỉm cười, ngoảnh lại, nói với Huyên –.
Lần đầu tiên, Huyên thấy đôi mắt Nguyện Hứa rưng rưng.
– Vâng, cảm ơn cô Nguyện Hứa. Tôi có tiết dạy tiếp. Cô có bận dạy lớp nào nữa không? Hẹn chiều nay, để nghe cô góp ý cho tiết dạy vừa rồi. – Huyên nói, và bước đi, đến lớp học khác đang chờ anh –.
– Không… – Nguyện Hứa không nói đủ câu vì thấy Huyên đã bước đi cho kịp tiết dạy –.
Huyên quay lại, thấy Nguyện Hứa bước ngang qua phía trước hội trường và rẽ vào lối phía sau dãy phòng học cũ, nơi học sinh để xe đạp. Cô từ tốn đi về nhà tập thể giáo viên.
Sau đó vài ngày, Huyên đã thực hiện tiết thao giảng trước cả tổ xã hội, bài “Chạy Tây”, thơ của Nguyễn Đình Chiểu. Tất nhiên thư kí hội đồng cũng là chuyên viên về thời khoá biểu của trường đã sắp xếp việc đổi tiết để toàn tổ đều dự được, nên cô giáo Nguyện Hứa cũng có mặt. Nguyện Hứa tỏ ra rất đồng cảm với thầy giáo Huyên. Và có một tiết khác, gần với tiết ấy, Nguyện Hứa lại cùng cả nhóm ngữ văn dự giờ Huyên dạy, bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, cũng của Nguyễn Đình Chiểu.
Đó là những bài giảng văn theo đúng bảng phân phối chương trình, cô giáo Nguyện Hứa và những giáo viên ngữ văn khác đều dạy.
Huyên là một người vốn rất tự tin về chuyên môn, nên qua những tiết thao giảng, tiết thường có đồng nghiệp dự giờ ấy, anh lại càng tự tin vào năng lực của mình. Và dần dần, anh trở nên thân quen với Nguyện Hứa hơn.

3

Tết Dương lịch đã trôi qua.
Ngàn cùng Huyên tha thẩn dạo quanh sân trường sau bữa cơm chiều, vừa thong thả bước vừa chuyện trò bâng quơ. Bỗng nhiên, giọng của Ngàn buồn hẳn:
– Anh Huyên này, không hiểu sao cô Nguyện Hứa lại xin nghỉ dạy luôn, anh à!
Huyên giật mình, nhưng cố tự trấn tĩnh:
– Ngàn nói như thật! Cô ấy nghỉ Tết Dương lịch, về với gia đình ba má ở Đà Lạt, chắc bị cảm bệnh gì đó, nên chưa kịp về lại Đạ Nông này, vậy thôi, chứ đâu phải xin thôi dạy luôn!
– Thật đó! Anh không tin à? – Ngàn lại bông đùa –. Có điều, không biết có phải do thầy giáo Huyên tệ tình với cô ấy thế nào đó, khiến cô ấy nghỉ dạy luôn hay không? – Và Ngàn lại cười tếu –.
Huyên cũng phải cười theo:
– Mình với cô Nguyện Hứa có tình ý gì mà phải “tệ tình” với nhau?
– Chẳng hạn như anh không chịu hiểu cô ấy, một khi cô ấy đã “bắn tín hiệu” cho anh!
– Chỉ vậy mà cô Nguyện Hứa nghỉ dạy à? Giáo viên chúng mình đâu còn là trẻ con!
Ngàn không nói gì nữa, nên Huyên cũng im lặng. Dạo bước thêm một vòng sân trường, rồi cả hai bước vào lối đi dẫn lui phía nhà ở tập thể.
Chiều hôm ở cao nguyên se lạnh.
Trước khi về phòng mình, Huyên nói với Ngàn:
– Để Ngàn xem, ngày mai hay chậm nhất là ngày mốt, cô ấy sẽ về dạy lại.
Ngàn cũng không nói gì, cúi đầu ngẫm nghĩ bước vòng lui phía sau, nơi những phòng đơn có cửa riêng của mỗi phòng.
Mãi đến tuần sau đó, Huyên mới tin cô giáo Nguyện Hứa đã nghỉ dạy học thật rồi, khi anh Đặng Đắc San, hiệu trưởng, gọi Huyên vào phòng giám hiệu, thông báo là Huyên phải “gánh” thêm hai lớp ở hai khối mười và mười một, cô Nguyện Hứa bỏ lại. Huyên cảm thấy băn khoăn, mặc dù tự đoán chắc cô giáo Nguyện Hứa chỉ xin thôi dạy vì lí do riêng hay việc gia đình ba má gì đó mà thôi.

4

Phía trước Trường Phổ thông trung học Đạ Nông là quốc lộ 20. Bên kia quốc lộ, một cách ngẫu nhiên, hai quán cà phê đối diện và đối xứng với trường. Một quán, cà phê chỉ là loại nấu và lọc sẵn, dùng nhanh, nên được gọi thành tên là quán “Bít tất”. Quán này còn có thêm thức ăn điểm tâm buổi sáng và mì bún gì đó suốt cả ngày. Một quán khác, mới khai trương vài tuần, số nhà là tên quán: 99.
Quán 99 mới đích thực là quán cà phê. Đó là một ngôi nhà sàn, nhưng sàn cách mặt đất cũng chỉ chừng dưới một mét, được làm hoàn toàn bằng gỗ, trừ mái lợp bằng tôn. Ngôi nhà ấy đứng giữa một khu vườn khá rộng, với nhiều loại hoa cỏ, cây trái làm kiểng. Bên trong là những bộ sa lông cũng bằng gỗ, được đánh vẹc ni vàng óng như lớp gỗ trần và gỗ ốp vách nội thất. Quầy cũng bằng gỗ vàng óng như vậy. Trên quầy luôn có một lọ hoa tươi. Sau quầy là cô con gái chủ nhà ăn vận lịch sự. Tiếp viên bưng nước đến cho các bàn cũng là con gái của chủ nhà, ăn vận cũng lịch sự không kém. Bên ngoài nhà sàn là những khúc cây được cưa ngang, lớn làm bàn, nhỏ làm ghế. Có khoảng dăm bộ bàn ghế như vậy đặt hẳn dưới bóng cây, giữa mưa nắng, cùng với một chiếc xích đu.
Quán 99 là nơi có cà phê phin tuyệt ngon cùng những thức uống nhâm nhi khác, như chanh rum chẳng hạn. Đặc biệt, có dàn máy và loa với nhiều cuộn băng nhạc hoà tấu, không lời cùng dăm cuộn có giọng hát ca sĩ được chọn lọc, khá hay. Âm nhạc thường ở độ vừa đủ nghe.
Đây là nơi thật sự yên tĩnh để nghe nhạc, suy tư. Khách đến không phải là những ai thích đám đông, sôi nổi, ồn ào.
Huyên với giáo viên đồng nghiệp thường vào quán 99 này.
Chiều nay, ngồi ở quán, không những Ngàn, còn có ba thầy giáo trẻ cùng tuổi khác: Nho, dạy sinh vật, vốn học cùng trường với Huyên không những ở bậc trung học tại Quảng Nam mà cả ở bậc đại học tại Huế. Chu, cũng chung trường thuở sinh viên, nhưng Chu học vật lí, và nay Huyên đã chuyển sang ở chung phòng với Chu. Thuỷ, học cùng lớp, cùng khoa với Huyên, năm học 1980-1981 này lại cùng nhóm ngữ văn Việt tại Trường Phổ thông trung học Đạ Nông.
Không khí từ những phút mới vào quán đã đượm buồn, nên không ai nói gì nhiều, chỉ ngồi nghe nhạc, nhấp môi cà phê và nhả khói thuốc lá.
Thật ra, từ khi được Ban giám hiệu thông báo chính thức về việc cô giáo Nguyện Hứa đã làm đơn xin thôi dạy học, với lí do trên văn bản là để ở nhà lo việc nhà giúp ba má và các em, trong hội đồng giáo viên ai cũng buồn. Lớp mười một A do chính Nguyện Hứa làm chủ nhiệm, học sinh ngơ ngác rồi buồn tiếc, khiến lớp ấy vốn trầm lại càng trầm hơn.
Bỗng dưng Ngàn lại khơi chuyện về cô giáo Nguyện Hứa, với giọng bông đùa cho không khí đỡ nặng nề:
– Anh Huyên, anh là trưởng nhóm ngữ văn Việt, sao anh không cất công lên Đà Lạt một chuyến để động viên tinh thần cô Nguyện Hứa?
– Ngàn đùa đó hả? – Huyên cười –. Đó là công việc của công đoàn trường, chứ đâu phải của nhóm chuyên môn.
– Tôi lại nghĩ cô ấy vì không phù hợp với môn ngữ văn Việt hiện nay, – Ngàn nói –, mặc dù cô ấy giảng dạy cũng đã hai năm rồi, và cả học kì này nữa…
Nho cũng cười:
– Ngàn làm gì mà rành rẽ về người khác lắm vậy? Đừng đoán mò nghe!
Ngàn thẳng lưng lên, vẻ mặt thật sự nghiêm túc:
– Các anh không biết đó thôi! Tôi là dân gốc Đà Lạt mà! Ở Đà Lạt, cũng như Ban Mê Thuột của nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn vậy, đó là “một nơi ai cũng quen nhau”. – Rồi Ngàn nói chậm từng tiếng –. Cô Nguyện Hứa chuẩn bị đi tu, các anh có tin không?
Huyên giật mình, hỏi nhanh:
– Đi tu? Phật giáo hay Thiên Chúa giáo?
– Trời! – Ngàn nhếch môi, ngạc nhiên –. Chúng ta sẽ gọi cô ấy là “Ma soeur”!
– Mình cũng cảm thấy dáng vẻ cô Nguyện Hứa toát ra hơi hướm nữ tu thật –. Chu nói, trong khi Thuỷ gật gù –.
Huyên lặng người, ngồi im lặng nhớ lại những hình ảnh về Nguyện Hứa mà anh ghi nhận được vào kí ức mình. Và Huyên lại một lần nữa giật mình khi nhớ tiết dạy có Nguyện Hứa dự giờ cùng với các giáo viên khác trong nhóm ngữ văn Việt: bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Cố nhớ kĩ hơn, Huyên cũng không thấy ở Nguyện Hứa có nét biểu lộ gì có thể gọi là bất bình chẳng hạn, khi anh đang giảng bài văn ấy cả.
“… Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ…
… Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó…
… Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ…
… Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ…”

Những dòng văn tế được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết bằng tất cả rung cảm thành khẩn, thương đau và phẫn nộ (phẫn nộ đến mức gọi Thiên chúa giáo là “tả đạo”, giáo dân là “cừu tanh”, Tây Pháp là “mọi rợ”…), từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỉ XIX, lại vang vọng về trong lòng Huyên.
– Mình thấy Ngàn nói có lí đó. Có lẽ môn ngữ văn Việt cũng như môn sử không phù hợp với cô Nguyện Hứa… – Chu lại nói –. Nhưng mình nghĩ cô ấy không nên xin nghỉ, mà nên xin chuyển sang phụ trách thư viện trường chẳng hạn.
– Chẳng lẽ cô Nguyện Hứa lại không nghĩ ra điều đó! – Nho nói –.
Huyên cũng muốn im lặng để nghe các bạn đồng nghiệp bàn luận, nhưng thấy không thể không nhắc lại câu nói mà có lần khi đi dọc hành lang đến lớp có tiết dạy, Nguyện Hứa đã nói với Huyên: “Lịch sử là lịch sử. Nếu văn chương phản ánh chân thực sự thật lịch sử một cách toàn diện và công bằng (không xuyên tạc, bóp méo, thiên lệch), được đưa vào sách giáo khoa, thì hậu thế chúng ta phải chấp nhận thôi. Nếu không, giáo viên chúng ta lại mắc lỗi đối với lịch sử, bằng sự đồng loã cắt xén, bưng bít văn-chương-sử-kí nữa!”. Điều đó đúng, nhưng lúc ấy Huyên chỉ cảm nhận được một phần, vì Huyên không ngờ Nguyện Hứa là giáo dân, và hơn thế nữa, là giáo dân vẫn còn đức tin Thiên Chúa giáo đến mức quyết chí vào tu viện… Ờ mà thôi, tuỳ mỗi người… Huyên thầm nghĩ. Vả lại, Nguyễn Đình Chiểu đã tố cáo bọn thực dân mượn chiêu bài tôn giáo để cướp nước, và phá hoại, tiêu diệt văn hoá dân tộc để nô dịch, theo cách hô lên “chém rắn” nhưng thực chất là “đuổi hươu”, như treo thịt dê rao hàng nhưng thực chất là để bán thịt chó, chứ Nguyễn Đình Chiểu cũng chưa phê phán vào bản chất của các tín điều Thiên Chúa giáo… Huyên thầm hiểu, chính vì thế, Nguyện Hứa vẫn giữ trọn vẹn đức tin Thiên Chúa giáo ở trong tâm trí mình, mặc dù cô thừa hiểu Thiên Chúa giáo đã bị thực dân Pháp và Tây Ban Nha lợi dụng như thế nào, Tổ quốc Việt Nam và đồng bào đã đau khổ dưới ách thống trị của chúng như thế nào, và máu xương người Việt đã đổ ra đến mức nào cho độc lập, tự do… Đó là chưa nói Thiên Chúa giáo chiếm đoạt chính quyền ở Miền Nam sau 1954 ra sao…
– Cô Nguyện Hứa vẫn tách bạch sử kí, văn chương phản ánh chân thực lịch sử ra khỏi đức tin Thiên Chúa giáo. – Huyên nhấn mạnh từ chân thực –. Đức tin là đức tin, sự thật lịch sử là sự thật lịch sử. Đức tin thuộc về tín đồ với Thiên Chúa, còn lịch sử, kể cả lịch sử Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã lại thuộc về con người, loài người. Mình đoán là cô Nguyện Hứa nghĩ rằng, mặc dù sự thật là Toà Thánh Vatican có giai đoạn chủ trương cho phép các đế quốc xua quân đi xâm lược, tiền thân Giáo hội Việt Nam là con đẻ của thực dân lợi dụng tôn giáo, ngay từ thế kỉ XV, XVI (sự xâm lược, lợi dụng đó được hỗ trợ bởi thánh chỉ của giáo hoàng thuở bấy giờ, hiện còn lưu trữ ở Vatican), và Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã nói chung có thể sai lầm, bậy bạ nhiều thứ khác, nhưng đức tin của tín đồ đối với Thiên Chúa thì bao giờ cũng thiêng liêng và không thể sai lầm, kể cả khi Nietzsche tuyên bố “Thượng đế đã chết”! – Huyên nói –. Chỉ khi nào chứng minh được Thiên Chúa hay Thượng Đế là ảo tưởng của tín đồ, của loài người, thì đức tin Thiên Chúa giáo mới chấm dứt sự tồn tại. – Huyên mỉm cười –. Nhưng thôi, đó là chuyện khác. Chuyện của cô Nguyện Hứa là cô ấy vẫn yêu thích môn ngữ văn Việt hiện nay, đồng thời vẫn muốn đi tu để thành “ma soeur”! Hai điều đó không loại trừ nhau.
– Rắc rối! Rắc rối! – Ngàn lại nói, và cười thành tiếng –. Anh Huyên muốn làm tốt công tác tư tưởng của nhóm trưởng chuyên môn thì thứ bảy sắp đến, đi với tôi lên Đà Lạt. Tối đó và sáng chủ nhật cho anh tha hồ làm công tác tư tưởng với cô Nguyện Hứa, rồi chiều chủ nhật ra xe về lại Đạ Nông! – Vẫn với giọng nghiêm trọng một cách bông đùa, Ngàn nói –.
Cả nhóm bạn giáo viên đều cười vui, xua tan không khí trầm lắng, buồn bã vừa rồi. Huyên không từ chối, cũng không quả quyết là sẽ đi Đà Lạt.
Nắng trong khu vườn cao nguyên lành lạnh đã nhạt dần. Khoảng thời gian chiều hôm đang đến. Dẫu bữa cơm chiều ở nhà ăn tập thể, chủ yếu là bắp xay vụn được nấu thay cơm, cùng với vài miếng cá khô kho mặn và tô canh lỏng bỏng rau trong nước muối mêm chút bột ngọt, đang chờ họ, cả nhóm bạn vẫn cảm thấy cuộc sống không đáng buồn lắm.

5

Khoảng một giờ trưa, Huyên và Ngàn đã có mặt tại bến xe huyện Đạ Nông. Ngàn luôn luôn là người lanh lợi, và chừng như anh mặc nhiên tự xem mình là đứa em út của tập thể giáo viên, vì anh vốn trẻ tuổi nhất – thậm chí, so với học sinh lớp mười hai, thầy giáo Ngàn chỉ nhỉnh hơn khoảng bốn tuổi. Ngàn cũng sống rất hồn nhiên, chan hoà, có lẽ thường nghĩ mình là vận động viên hơn là nhà giáo, nên anh không như những giáo viên khác thường bị hai chữ mô phạm hay “bộ lễ” ràng buộc một cách vô thức. Nhờ vậy, nên hai thầy giáo trẻ đã có hai chiếc vé xe trên tay.
Chiếc xe cũng không hẳn là loại xe gì, vì hình như thùng xe đã được tu tạo, chế hoá lại từ xe du lịch, được sơn màu lam đậm, khoảng bảy chỗ ngồi, khá nhồi nhét.
Khung cảnh đèo Prenn rực rỡ nắng. Huyên những muốn mở cửa kính để có thể hưởng được ánh nắng vàng tươi nhưng se lạnh ấy.
Đến Đà Lạt, Ngàn càng trở nên vui vẻ hơn hẳn, trong tâm trạng của một người Đà Lạt gốc trở về thành phố quê nhà.
Huyên đi bên Ngàn để về nhà Ngàn, trước khi tìm đến nhà cô giáo đồng nghiệp Nguyện Hứa.
– Mình đi thăm cô Nguyện Hứa chỉ với tư cách cá nhân, bạn dạy cùng trường, chứ không phải vì là trưởng nhóm chuyên môn ngữ văn Việt đâu, nghe Ngàn! – Huyên phân trần lần thứ hai –.
– Anh cứ băn khoăn về những chi tiết ấy làm chi!
– Làm việc gì mà không đúng chức năng, thấy kì lắm! Hơn nữa, hôm trước, Ngàn có bảo đùa là mình có làm điều chi tệ tình khiến cô ấy mích lòng, nên mình cứ áy náy mãi, dù biết là Ngàn chỉ nói đùa.
– Tính tôi hay đùa cho vui mà! – Ngàn cười vang –.
Tối hôm đó, sau bữa cơm đúng nghĩa của của từ cơm, hai anh em đến nhà cô giáo Nguyện Hứa như dự định.
Đêm Đà Lạt thật đẹp, nhất là dịp đầu năm dương lịch, cũng là tháng chạp ta, sắp Tết Nguyên đán. Bước trên những con đường lát đá, dốc lên, dốc xuống, nhưng nhờ trời khá lạnh, nên Huyên không cảm thấy mệt mỏi chút nào. Vừa đi, Huyên vừa nghĩ, không biết anh sẽ nói chuyện với Nguyện Hứa thế nào đây cho thật tế nhị.
Chừng như Ngàn đoán được ý nghĩ của Huyên, nên Ngàn hỏi:
– Anh chuyện trò với chị Nguyện Hứa thế nào đó, để chị ấy qua Sở Giáo dục rút đơn xin nghỉ dạy, lại tiếp tục dạy học ở trường mình cho vui nghe!
– Mình chỉ nói như hôm mấy anh em giáo viên chúng mình ngồi ở quán 99: Tín đồ có thể công khai phê phán giáo hội La Mã, giáo hội Việt Nam về phương diện lịch sử xâm lược, bị thực dân lợi dụng, nhưng vẫn giữ trọn đức tin về Thiên Chúa. Chân lí Thiên Chúa giáo, tạm gọi như vậy, luôn luôn đúng, mặc dù giáo hội Thiên Chúa giáo hay tổ chức quyền lực Thiên Chúa giáo nào đó thực hiện chân lí ấy có thể sai lầm, tàn ác… Sự thể đó cũng như các triều đình Nho giáo Trung Hoa bao lần xâm lược nước ta, nhưng đối với các nho sĩ người Việt mình, cụ Khổng Tử vẫn là hiện thân của chân lí. Tạm đánh đồng như thế. Vậy thì, cô giáo Nguyện Hứa vẫn sáng suốt, đầy xúc cảm khi phân tích, bình giảng “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, tác phẩm đỉnh cao, cao nhất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, cũng như giáo viên nào đó có gốc Nho giáo dạy “Bình Ngô đại cáo” vậy mà! – Huyên nói tiếp –. Tất nhiên là với nội dung đó, nhưng chuyện trò một cách nhẹ nhàng, khéo léo, tế nhị… Tuy vậy, Ngàn à, chính bản thân cô Nguyện Hứa đã thừa thấu hiểu điều đó, không cần chi mình phải nói cả. Thăm cô ấy, với tình cảm đồng nghiệp là chính!
“Giữ lấy đức tin bền vững em ơi! Giữ lấy trái tim đòi sống yêu đời! Làm một bản tình ca của đôi lứa ta, dâng hết bao người” – Ngàn vừa cười vừa hát một bản nhạc, có thể là tôn giáo vận, của nhạc sĩ cách mạng Hoàng Việt –.
Huyên cũng mỉm cười. Anh vừa bước song song với Ngàn, vừa nghe Ngàn khẽ hát trọn vẹn bài hát đó. Ban đầu hơi bông đùa, nhưng càng hát, giọng Ngàn càng trở nên xúc động thật sự.
Rồi cũng tìm đến tận ngõ nhà của cô giáo đồng nghiệp Nguyện Hứa.
– Anh đứng đây, tôi vào nhà hỏi chị Nguyện Hứa trước.
Lát sau, có bóng Nguyện Hứa thoáng xuất hiện rồi biến mất sau mấy hàng cây kiểng. Cơ chừng Nguyện Hứa ra núp xem thử có phải là Huyên từ Đạ Nông lên tìm thăm cô như lời Ngàn vừa nói với cô hay không. Thế là Nguyện Hứa biết đích xác là Huyên, dưới ánh đèn đường hiu hắt, đang đứng trước ngõ nhà thật rồi. Nhưng Huyên chờ đến mươi phút sau, vẫn chưa thấy Nguyện Hứa và Ngàn ra mời anh vào nhà. Huyên cảm thấy có gì đó không ổn.
Quả thật, không ổn rồi, vì Ngàn đi ra một mình, dáng vẻ buồn bã, và nói, khi đã đứng trước mặt Huyên:
– Chị Nguyện Hứa không muốn tiếp ai ở dưới trường mình lên thăm hết!
Và Ngàn kéo tay Huyên để cùng bước về.
Huyên cảm thấy hơi phũ phàng, nhưng vẫn cảm thông được tâm trạng của Nguyện Hứa. Tuy thế, anh vẫn hỏi Ngàn:
– Sao vậy? Chắc cô ấy không muốn bị tình cảm đồng nghiệp làm mềm lòng, khiến cô không thể dứt khoát ý định đi tu?
– Cô ấy rất sợ gặp lại đồng nghiệp ở Đạ Nông, vì vậy đó. Tôi nói mãi, thuyết phục mãi, thậm chí cả năn nỉ nữa, nhưng cô ấy vẫn không muốn gặp lại anh. Mấy hôm trước đây, cũng có vài giáo viên nữ ở Đạ Nông, gia đình ở Đà Lạt này, tìm thăm cô Nguyện Hứa, cô ấy cũng không tiếp. – Ngàn nói thật khẽ với giọng buồn buồn, và dùng đại từ cô như Huyên –.
– Tại sao cô ấy lại tiếp Ngàn?
– Tại vì tôi đột ngột vào nhà, cô ấy không kịp chạy trốn. – Ngàn như nghẹn lại –. Thật ra, tôi đã chặn bước cô ấy, không để cô ấy trốn, để an ủi, hỏi han cho rõ lẽ. Và sự thể là vậy đó, anh Huyên à!
Huyên và Ngàn bước ra phố, theo dự định, nhưng không có cô giáo Nguyện Hứa cùng đi như họ tưởng. Phố trung tâm Đà Lạt về đêm, ánh đèn điện thưa thớt, như một mảng sao trôi giữa bầu trời đen.
Đêm hôm đó, trong lòng Huyên, vừa có chút gì nhẹ nhõm vì anh không đến nỗi tệ tình với đồng nghiệp Nguyện Hứa, vừa có chút gì trĩu nặng, không thể không gọi là buồn tiếc, vì mãi mãi Nguyện Hứa không bao giờ còn trở lại với bục giảng ở Đạ Nông. Anh biết sáng chủ nhật ngày mai sẽ là một buổi sáng rỗng, bởi anh không thể gặp Nguyện Hứa, và cũng vì buồn bã, anh không thể đến thăm gia đình các đồng nghiệp Đạ Nông, hiện họ có mặt ở gia đình ba má hay gia đình riêng của họ tại thành phố này.

6

Hơn ba tháng sau…
Sau lần gặp gỡ và góp ý cho Hồng Vàng, cô học trò lớp mười hai tại Đà Lạt, Huyên lại nhớ về kỉ niệm “sự cố” ấy. Anh nhớ lại là nhớ vậy thôi, chứ tự thấy không cần thiết phải góp ý cho Hồng Vàng làm gì cho thêm rối trí cô học trò đang mùa ôn thi, luyện thi. Huyên thầm bảo: “Hồng Vàng thân mến, hãy cố gắng vượt qua tuổi phổ thông trung học để bước vào tuổi đại học một cách vinh dự!”

T.X.A.
TP.HCM., 10:05, 06-03 – 11:15, 07-03 HB13 (2013)

— CÒN TIẾP —

ĐÃ GỬI TTTĐT. HỘI NHÀ VĂN TP.HCM. (07-03 HB13 [2013])
& TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG (07-03 HB13 [2013])

https://txawriter.wordpress.com/2013/03/08/hau-chien-khong-rieng-ai-iv-tiep-theo/

Chương I:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-i

Chương II:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-ii

Chương II:
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iii

Còn tiếp:
“Hậu chiến, không riêng ai” — tiếp theo — (V)

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: | Leave a Comment »

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI (III) – tiếp theo

Posted by Trần Xuân An trên 04.03.2013

hidden hit counter

HẬU CHIẾN, KHÔNG RIÊNG AI
Chương III
Trần Xuân An

1

Nắng buổi sáng đã phủ tràn hai vuông đất trồng khoai sắn đã dỡ củ và lối đi ở giữa. Nắng phủ tràn cả hai cây phượng đối xứng, sát bên hiên, đã cao vượt lên quá tầm tay với. Nắng vàng rực khắp hành lang nhà ở tập thể giáo viên, nơi thầy giáo Huyên đang đứng với cuốn vở giáo án, sách giáo khoa trong tay.
Trước mặt anh là văn phòng nhà trường, gần kề dãy phòng học cũ, chắc hẳn được xây từ mươi năm trước, trông cũ kĩ hơn dãy nhà tập thể mới tất công này. Cũng trước mặt anh, ngay phía sau văn phòng, dãy phòng học kia và ở hai bên hai vuông sân của nhà ở tập thể, vốn đã được tận dụng để trồng trọt khoai sắn tăng gia, là nhà ăn tập thể còn tạm bợ và ngôi nhà mái tôn vách gỗ, nơi ở của gia đình một nhân viên…
Huyên để tầm mắt vượt lên nóc dãy phòng học, nhìn ngọn cây thông cao vút duy nhất trên sân trường, nếu không kể những cây thông non mới trồng. Nắng đã lấp loá ở những cành thông xanh lá trên cao.
Chỉ vài phút thôi, đứng ở hành lang trước phòng của mình và một đồng nghiệp, Huyên đã cảm nhận được hơi ấm của nắng trong tiết trời se lạnh của cao nguyên tháng mười. Khung cảnh này đã trở nên thân thuộc đối với thầy giáo Huyên trong gần hai tháng nay, kể từ đầu tháng chín 1980, khi anh rời phân hiệu trung học ở Đạ Huoai, rời trường chính ở Đạ Công để lên Đạ Nông này giảng dạy. Nhưng chính những lần đứng sưởi nắng buổi sáng trong khoảng mấy phút như đang lúc này đây, Huyên lại nhớ nhiều hơn đến Bảo Nghĩa, một ngôi trường cấp cơ sở, nơi anh trải qua đó năm dạy học đầu tiên, trước khi dạy ở Đạ Huoai năm học vừa rồi, vì dẫu sao Bảo Nghĩa ở cao độ cỡ 800, cũng cùng khí hậu cao nguyên như Đạ Nông, ở cao độ khoảng dưới 1000.
Bắt chợt, anh Nguyễn La Sắc, hiệu phó phụ trách lao động nhưng vẫn đảm trách thêm việc giảng dạy ngữ văn cho hai lớp thuộc hai khối mười một và mười hai, đi từ cửa phòng phía sau dãy nhà ở tập thể, vòng ra phía trước. Khi thấy Huyên đang đứng ở hành lang, anh cười, vừa đi vừa nói:
– Huyên có tiết dạy sáng nay à? – Anh Sắc nhìn đồng hồ đeo tay –. Còn khoảng hai mươi phút nữa mới đổi tiết, xuống phòng hội đồng ngồi chơi với mình một chút. Mình sẽ bàn với Huyên việc này.
Bước xuống khỏi bậc thềm, Huyên nói vâng và cùng đi với anh Sắc trên lối đi sẫm màu đất nâu đen.
– Huyên này, mình định nhờ Huyên cộng tác với mình để làm một buổi ngoại khoá cho khối mười một. Đề tài thú vị lắm, mình tâm đắc lắm.
– Đề tài cụ thể là gì anh? Liệu em có đóng góp được không?
– Về Nguyễn Du.
– Vậy thì tuyệt vời quá.
Hai người bước vào phòng hội đồng giáo viên qua khung cửa mở phía sau. Đó là nơi có những khung lịch công tác, giảng dạy cá nhân của các giáo viên, bảng thời khoá biểu học tập, đứng lớp của toàn trường và những bộ bàn ghế học trò xếp quanh theo bốn bức vách, chứ chưa có chiếc bàn lớn với những chiếc ghế tựa chung quanh như các trường phổ thông trung học lớn khác, mặc dù đây là trường phổ thông trung học trọng điểm duy nhất của cả tỉnh. Thấy phòng hội đồng lạnh lẽo quá, anh Sắc bảo Huyên:
– Anh em mình qua phòng văn thư uống nước luôn.
Phòng văn thư cùng chung vách với phòng hội đồng và có cửa thông. Thật ra, phòng văn thư cũng chỉ có một bàn giấy của một cô nhân viên kế toán kiêm thư kí văn phòng, diện tích còn lại dành để đặt bàn ghế tiếp khách, cũng là bàn nước, ngồi giải lao hay chờ đến tiết dạy của giáo viên. Cô văn thư đang lục tìm giấy tờ gì đó ở những chiếc tủ bên phòng hiệu trưởng.
Lúc này, chẳng có giáo viên nào ở đây ngoài anh Sắc và Huyên, nước uống cũng chưa có.
– Mình định nhờ Huyên làm giúp mình một phần, trong buổi ngoại khoá đó. – Anh Sắc nói, khi đã đối diện với Huyên, hai người ngồi hai bên chiếc bàn nước –. Nói cụ thể là Huyên đảm trách giúp phần tiểu sử của Nguyễn Du, khai thác và nhấn mạnh rõ những nét cần thiết để làm cơ sở cho phần chính là bài khảo luận thuyết trình của mình.
Huyên hỏi:
– Nhưng chủ đề là gì anh?
– Mình đặt nhan đề là “Nguyễn Du chọn lựa và hối hận vì sự chọn lựa của mình”. Đó cũng chính là chủ đề. – Anh Sắc nói với nét mặt tỏ ra rất tâm đắc –.
Huyên hơi giật mình:
– Hay! Em thấy rất hay đấy. – Huyên cười chia sẻ –. Mặc dù đã kỉ niệm 160 năm ngày mất của Nguyễn Du, nhưng Nguyễn Du vẫn rất thời sự, trong thời đoạn giao thời này.
Có lẽ anh Sắc cần giấu đi tính thời sự hay sao đó, nên anh nói:
– Thời sự hay không là tuỳ người nghe báo cáo chuyên đề, chứ mình chỉ làm đúng tinh thần khoa học mà thôi. Cuộc đời và tâm trạng Nguyễn Du qua thơ chữ Hán và cả Truyện Kiều của ông như thế nào, mình trình bày lại như thế, chỉ nhằm cung cấp thêm kiến thức cho học sinh khối mười một… Đó cũng là dịp sinh hoạt ngoại khoá của tổ xã hội anh em mình.
Huyên cười:
– Em nhất trí sẽ lo phần tiểu sử Nguyễn Du cho phù hợp với bài báo cáo chuyên đề của anh. Anh “chọn lựa” em cộng tác, anh không phải “hối hận vì sự chọn lựa” của anh đâu!
Cả hai thầy giáo, cách nhau khoảng mười mấy tuổi, cùng thú vị cười thành tiếng.
Bác cai trường, tên Uy, bước vào với chiếc bình nước và khay li tách trên tay:
– Xin lỗi hai thầy, tôi thấy chưa đến giờ ra chơi nên giờ mới có nước trà. Nước trà còn nóng, hai thầy dùng nước nhé. – Bác cai vừa nói vừa rót nước vào hai chiếc li nhỏ, và nhận gần cùng lúc tiếng cảm ơn của hai thầy giáo –.
Sau tiếng chuông ra chơi, nhiều giáo viên đã có mặt ở phòng văn thư cũng là phòng tiếp khách và giải lao ấy. Câu chuyện của anh Sắc và Huyên tạm ngừng lại.
Lúc cùng anh Sắc trên đường đến hai lớp mà mỗi người có tiết dạy, Huyên nói thêm với anh ấy:
– Em sẽ khẳng định một chút về thời đoạn của Nguyễn Du, để ngầm nhấn mạnh giao thời thuở đó khác với giao thời thuở này, kẻo phiền hà anh à.
Nói xong, Huyên đi nhanh đến lớp mình dạy.

2

Sau đó khoảng một tuần, phần chương trình học sinh khối mười một phải học về Nguyễn Du với dạng bài tác giả – tác phẩm sắp hoàn tất để chuẩn bị bước vào phần tác giả – tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu, buổi ngoại khoá đã được tiến hành, tại hội trường của nhà trường. Dĩ nhiên phải tổ chức vào buổi chiều.
Hội trường toạ lạc ở vị trí góc vuông của hai dãy phòng học, gồm một dãy song song với nhà tập thể giáo viên và một dãy đối diện với dãy phòng thư viện, phòng thực nghiệm, phòng giáo cụ, phòng truyền thống… Ba dãy phòng học tập nói chung ấy như ba cạnh của một hình vuông mà ở giữa là sân trường, có cột cờ trước một cây thông cao vút, và đoạn quốc lộ 20 ngang qua trường là cạnh còn lại. Dãy nhà tập thể giáo viên là đường gạch dưới của hình vuông đó.
Chiều hôm ấy, các phòng học đều vắng lặng như mọi buổi chiều. Học sinh thuộc bốn lớp khối mười một đã có mặt tại hội trường. Ngoài ra, còn có thêm một số học sinh giỏi ngữ văn của hai khối lớp kia. Ban giám hiệu, ngoài anh Sắc, còn hai vị nữa – anh San và cô Phú Sơn –, cũng như anh Ích, thư kí công đoàn, cô Nguyên, bí thư đoàn trường, đều đến tham dự. Cũng đến tham dự còn có một số giáo viên tổ tự nhiên.
Sau lời phát biểu rất ngắn của hiệu trưởng, lời giới thiệu cũng rất gọn của tổ trưởng xã hội Lý Phú Lộc, thầy giáo Huyên bắt đầu phần tiểu sử – niên biểu của Nguyễn Du (1765-1820) (1).
Học sinh khối mười một mặc dù đã học tiểu sử Nguyễn Du ở giờ học chính khoá, nhưng đến lúc này, mới thật sự thấy rõ “lí lịch” của bậc thi hào là rất “phức tạp”.
Trước hết, Nguyễn Du được sinh ra, lớn lên và làm quan, làm thơ vào một trong những giai đoạn phức tạp nhất của lịch sử nước ta. Chính tính phức tạp ấy đã góp phần hình thành cho dân tộc ta một thi hào.
Tìm hiểu sâu hơn về bối cảnh lịch sử: Đó là thời điểm dòng sông Gianh chia cắt đất nước khoảng hai trăm năm thành hai Đàng, Đàng Ngoài và Đàng Trong, trở thành dòng sông thống nhất, nối liền non sông thành một dải, quy về một mối, nhờ vó ngựa, thanh gươm của thiên tài quân sự Tây Sơn Nguyễn Huệ và binh tướng của ông. Chúa Nguyễn Đàng Trong phải rời bỏ Phú Xuân (Huế) để tìm đường bôn tẩu. Triều đình vua Lê – chúa Trịnh Đàng Ngoài cũng sụp đổ, lưu vong. Phía Nam, quân ngoại viện Xiêm La tràn qua Nam Kỳ nước ta, liền bị Nguyễn Huệ đánh tan. Phía Bắc, quân Thanh của Trung Hoa vin vào cớ cứu giúp Nhà Lê nhằm thực hiện mưu đồ xâm lược, thống trị cũng bị quét sạch bởi hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ. Nhưng không bao lâu, triều đại Tây Sơn cũng sụp đổ trước sức phản công của chúa Nguyễn với sự giúp sức của cố đạo Pháp (cha Cả Pigneaux de Béhaine) và một số lính đánh thuê người Pháp (do cố đạo tuyển mộ, không thuộc triều đình nước Pháp). Triều đại Nhà Nguyễn khởi đầu, bằng sự phục hồi vương quyền chúa Nguyễn, bởi Gia Long Nguyễn Ánh, người đã đánh đổ Tây Sơn để thừa hưởng và kế tục sự nghiệp thống nhất đất nước tuy vẫn còn dở dang, chưa trọn vẹn của chính Tây Sơn. Nói khái quát, ngắn gọn hơn: thời đại Nguyễn Du là thời đất nước ta diễn ra cuộc nội chiến giữa ba tập đoàn phong kiến (một, vua Lê – chúa Trịnh; hai, chúa Nguyễn; và ba, Tây Sơn) dẫn đến hai cuộc chiến tranh chống hai lực lượng ngoại bang là quân Tàu Nhà Thanh và quân Xiêm La, đồng thời diễn ra công cuộc thống nhất trọn vẹn bởi sự chiến thắng cuối cùng của một Đàng (chúa Nguyễn Đàng Trong), chứ không phải của lực lượng phong kiến thứ ba (Tây Sơn).
Tìm hiểu sâu hơn về thân nhân ruột thịt của Nguyễn Du: Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, làm đến chức tể tướng (thủ tướng) triều vua Lê chúa Trịnh, là người đã cùng Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy quân lính Đàng Ngoài đi đánh chúa Nguyễn Đàng Trong, chiếm kinh đô Phú Xuân và ruổi quân, truy kích chúa Nguyễn cùng quan binh đến tận Quảng Nam. Đó là trận đánh cuối cùng của Nguyễn Nghiễm, vì ông đã cảm bệnh tại Nam Ô (Quảng Nam), phải quay trở về quê rồi chết, chết trong vị thế là một kẻ thù trực tiếp của chúa Nguyễn. Anh ruột khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Khản, cũng là tham tụng (tể tướng) tại phủ chúa Trịnh. Nguyễn Điều, cũng là anh cùng cha khác mẹ, làm quan cho Lê – Trịnh đến chức đứng đầu một xứ Sơn Tây. Nguyễn Nễ (Nguyễn Đề), anh cùng cha cùng mẹ, cũng làm quan trong phủ chúa Trịnh Đàng Ngoài, nhưng sau đó, chính Nguyễn Nễ, như anh vợ Nguyễn Du là Đoàn Nguyễn Tuấn, kẻ sĩ Bắc Hà, lại làm quan cho Tây Sơn, sau khi vua Lê chúa Trịnh bại vong. Ngược lại, một người anh cùng cha khác mẹ khác của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh, lại theo phong trào “phục quốc” chống Tây Sơn, bị Tây Sơn bắt được, giết chết, và đốt sạch, phá sạch cơ ngơi họ Nguyễn tại Nghi Xuân, Tiên Điền, Hà Tĩnh. Xin lưu ý là Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn vì vua Lê chúa Trịnh, chứ không phải vì chúa Nguyễn. Trong những người anh đó, Nguyễn Nễ là đặc biệt quái lạ, có thể nói là cơ hội chủ nghĩa bậc nhất, vì ông là kẻ đã từng làm quan cho chúa Trịnh, lại làm quan cho Tây Sơn rồi cuối cùng lại làm quan cho Gia Long. Cũng xin lưu ý: Nguyễn Nễ là quan lớn của Tây Sơn, với chức vụ quân đội là hiệp tán nhung vụ, trong khi Tây Sơn vốn là kẻ thù của chúa Nguyễn, và biết đâu đã có lúc Nguyễn Nễ trực tiếp chỉ huy quân đánh quan binh chúa Nguyễn. Nhìn chung về thân nhân Nguyễn Du: hầu hết là quan lớn, lớn nhất hay khá quan trọng, của hai lực lượng thù địch với chúa Nguyễn, trong đó, cha là kẻ thù số một của chúa Nguyễn vì trực tiếp đánh chiếm Phú Xuân (Huế) và truy kích chúa Nguyễn đến tận Quảng Nam.
Tìm hiểu sâu hơn về bản thân Nguyễn Du: Nguyễn Du vốn là một viên quan võ cấp thấp dưới triều vua Lê chúa Trịnh. Khi Tây Sơn chinh phạt vua Lê chúa Trịnh và đánh đuổi quân Nhà Thanh Trung Hoa, Nguyễn Du phải sống ẩn dật suốt mười năm ở quê vợ, tại xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, từ 1787 đến 1796. Khi Nguyễn Du vào lại quê nhà ở Tiên Điền, Hà Tĩnh, “mười năm gió bụi” xem như kết thúc, để mở đầu giai đoạn “ở ẩn dưới chân núi Hồng Lĩnh”. Trong thời đoạn “gió bụi”, ông đã có ý định tham gia phong trào “phục quốc”, cầm gươm chống Tây Sơn, nhưng ý định đó chỉ biểu lộ lấp loé trong thơ, chứ chưa thể hiện thành hành động. Lúc về Tiên Điền, ông cũng từng mưu toan vào Gia Định (Nam Kỳ, Đàng Trong) để phò giúp chúa Nguyễn, chống lại Tây Sơn. Việc bị tiết lộ, nên Nguyễn Du bị quan Tây Sơn là Nguyễn Thận bắt giam hơn ba tháng. Sau đó, ông được phóng thích, nhờ anh ruột là Nguyễn Nễ, người đã làm quan cho Tây Sơn và cũng thân thiết với Nguyễn Thận, xin Nguyễn Thận tha cho. Sáu năm sau, khi Nguyễn Ánh đã lên ngôi hoàng đế trên đất nước đã thống nhất hai Đàng (hai Miền), ba Phe (ba lực lượng), thành một mối, Nguyễn Du thấy khó lòng từ chối, đã ra làm quan cho triều đại mới của Gia Long, kết thúc giai đoạn “ở ẩn dưới chân núi Hồng Lĩnh”. Từ 1802, khi Nguyễn Du đã 37 tuổi, cho đến, 1820, 55 tuổi, lúc ông qua đời tại Huế do bệnh dịch, Nguyễn Du làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, một thế lực mà trong thời chiến tranh, vốn xem cha ông là kẻ thù trực tiếp, số một. Ông tiến dần từ chức tri huyện cho đến quan hàm cao nhất là Cần chánh điện đại học sĩ, quan chức là hữu tham tri Bộ Lễ (thứ trưởng) và vẫn giữ tước hiệu Du Đức hầu, được giao phó nhiều trọng trách, như làm chánh sứ, thay mặt triều đình Nhà Nguyễn, sang Trung Hoa. Tuy nhiên, Nguyễn Du làm quan cho triều Nguyễn cũng với nhiều “tâm sự”, “nỗi niềm”, nhiều lần xin cáo quan về quê nghỉ dưỡng bệnh, đến khi mắc bệnh nguy kịch tại kinh đô cũng không muốn uống thuốc điều trị… Nguyên nhân có lẽ một phần xuất phát từ chính tâm lí của ông, còn một phần khác, chủ yếu và trực tiếp hơn, là do lòng ghen tị của quan chức cùng thời, nhất là quan chức Đàng Trong vốn gắn bó với triều Nguyễn từ trước, đặc biệt là trong thời Nguyễn Ánh còn bôn tẩu, chinh chiến. Phải chăng chính cái chết uất của Nguyễn Nễ do sự truy bức của tri phủ Nguyễn Văn Chiêu đã khiến Nguyễn Du luôn lo sợ về những viên quan như Nguyễn Văn Chiêu quanh mình? Có thể không thực sự thấu hiểu lắm, nhưng vua Gia Long cũng đã trực tiếp vừa an ủi vừa trách nhẹ ông: “Nhà nước dùng người, ai giỏi thì cất lên, không hề phân biệt người Bắc, kẻ Nam. Khanh với Ngô Vị đã được vua biết tài mà bổ dụng, làm quan đến chức á khanh (tham tri), biết điều gì cứ nói để làm cho hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè, sợ sệt, chỉ dạ dạ vâng vâng thế thôi” (2).
Nếu gọi đó là “lí lịch” như danh từ hiện tại chúng ta đang sử dụng, thì đúng là “lí lịch” ấy quá phức tạp. Và sự thể quan cũ kể công, moi tội quan mới vừa kịp quy thuận, theo về, xuất phát từ tâm địa so bì, đố kị thời nào cũng có…
Cuối phần do mình đảm trách, vẫn trước máy vi âm (micro), thầy giáo Huyên nói:
– Qua thân thế – tiểu sử và hành trạng Nguyễn Du, người đương thời và hậu thế nhận thấy triều Nguyễn, cụ thể là Gia Long, Minh Mạng, không xem lí lịch là quan trọng, và tin vào sự tự cải tạo, biến đổi của bản thân từng người. Nhà Nguyễn vẫn sử dụng, cất nhắc lên vị trí quan chức rất cao, không những quan lại, con cháu của những ai đã phục vụ cho triều đại của vua Lê chúa Trịnh cựu thù mà cả những đối tượng như thế thuộc triều đại Tây Sơn vốn cũng là cựu thù của Nhà Nguyễn, và chỉ trừng phạt họ, khi họ chống lại Nhà Nguyễn. Chính điều này đã góp phần quan trọng trong việc ổn định xã hội Việt Nam – Đại Nam dưới triều Nguyễn, và triều Nguyễn để lại tiếng thơm muôn đời, ít ra là ở chính sách dùng người, sử dụng nhân tài, nguyên khí của nước nhà, của non sông Tổ quốc. – Thầy giáo Huyên nói tiếp –. Hiện nay, về mặt xác định đối tượng phục vụ trong các lĩnh vực công tác, Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ, đó là nhân dân, đất nước, với lòng trung hiếu là “trung với nước, hiếu với dân”, với ý thức “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; và đặc biệt trong lĩnh vực văn chương, với chủ nghĩa biện chứng và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, người học tập, nghiên cứu và sáng tác đã xác định phải hướng ngọn bút của mình vào đất nước, vào nhân dân, chứ không phải dùng văn chương để thể hiện sự gặm nhấm nỗi lòng, uẩn khúc trong tâm tư cá nhân. Chúng ta có tài, có hồn, thì hãy học thay, hãy viết thay cho nhân dân, cụ thể là công nhân, nông dân, học và viết về đất nước, vì đất nước, về nhân loại, vì nhân loại, chứ không phải viết cho cá nhân mình, và dẫu có viết về cá nhân mình thì cũng vì nhân dân, đất nước, vì nhân loại. Vì thế, chủ nghĩa lí lịch trong văn chương hiện nay là vô nghĩa. Nhưng chúng ta cũng nghiên cứu mảng thơ tâm sự cá nhân của Nguyễn Du, để hiểu một nhà thơ lớn thời phong kiến, mang ý thức hệ phong kiến, cuối giai đoạn trung đại trong văn học sử nước ta.
Phần thân thế – tiểu sử của Nguyễn Du, thầy giáo Huyên chỉ trình bày trong khoảng hai mươi phút. Sau đó, buổi ngoại khoá mới đi vào phần chính của đề tài với gần chín mươi phút. Đó là bài báo cáo chuyên đề của thầy giáo Nguyễn La Sắc: “Nguyễn Du đã chọn lựa và hối hận vì sự chọn lựa của mình – tâm sự thi hào qua thơ chữ Hán và Truyện Kiều” (3).
Có một điều đặc biệt là thầy giáo Sắc đã dùng ý tưởng về Từ Hải của một nhà nghiên cứu nổi tiếng, để phân tích hình tượng Từ Hải trong Truyện Kiều, nhằm chứng minh trong cả quãng đời làm quan cho triều Nguyễn, từ Gia Long cho đến đầu đời Minh Mạng, Nguyễn Du vẫn luôn hoài vọng, nuối tiếc Quang Trung Nguyễn Huệ – Nhà Tây Sơn –, chứ không phải hoài vọng, nuối tiếc triều đại vua Lê chúa Trịnh. Anh khái quát: một là, Nguyễn Du chọn lựa việc chống Tây Sơn, nhưng chỉ mới có ý định; hai là, Nguyễn Du chọn lựa việc mưu tính chạy vào Gia Định để phò tá Nguyễn Ánh, bất chấp cha ruột mình là kẻ thù số một, trực tiếp của Nguyễn Ánh, nhưng chưa thực hiện thì đã bị quan Tây Sơn bắt giam; ba là, Nguyễn Du dù muốn dù không cũng đã chọn lựa làm quan trong triều Nguyễn nhất thống, nhưng ông lại hoài vọng, tiếc nuối Tây Sơn, một lực lượng ông từng có ý định chống lại nhằm “phục quốc” cho vua Lê chúa Trịnh hay chúa Nguyễn, vì Tây Sơn là lực lượng hào hùng, oanh liệt nhất. Tâm sự Nguyễn Du là cả một khối mâu thuẫn, luẩn quẩn, luôn chọn lựa và cũng luôn hối hận vì sự chọn lựa của chính ông.
Buổi sinh hoạt ngoại khoá, báo cáo chuyên đề chủ yếu cho học sinh khối mười một hôm ấy, khoảng vào tháng mười 1980, giữa học kì một năm học 1980-1981, được Ban giám hiệu đánh giá rất cao và học sinh, giáo viên có mặt rất bằng lòng.
Tuy vậy, khi thầy giáo Huyên bước ra khỏi hội trường, một vài học sinh giỏi thuộc cả ba khối lớp mười, mười một, mười hai đi theo. Trong đó, có một em khẽ nói:
– Nói như thầy và thầy Sắc, thì vấn đề “chủ nghĩa lí lịch” không quan trọng trên bước đường học hành và làm quan dưới chế độ phong kiến; và dưới chế độ mới hiện nay, “chủ nghĩa lí lịch” trong lĩnh vực học tập, công tác, và cả sáng tác, cũng không còn là vấn đề. Có điều, thưa thầy, trong thực tế, em thấy chính anh ruột của em, năm vừa rồi làm bài rất tốt, nhưng chính quyền địa phương vẫn phê lí lịch rất nặng nề nên không đi học đại học được.
Huyên phải bước về phía dãy phòng học vắng người, rồi ngoắt các em học sinh ấy đến bên cạnh, và anh nói, cũng khẽ thôi:
– Tôi biết trong thực tế xã hội dưới chính quyền mới vẫn còn thực trạng đáng buồn như vậy. Tuy nhiên, tôi vẫn nói trên cơ sở tư liệu sách vở, văn bản nghị quyết, chỉ thị của Đảng (4) và Nhà nước, tôi tiếp thu được, và chủ yếu là bằng suy nghĩ của chính tôi, với hi vọng sẽ góp phần chuyển biến trong xã hội càng sớm càng tốt, ít ra là có sự chuyển biến trong các em, những người sẽ là những cán bộ chính quyền địa phương và cấp cao hơn ở tương lai, chẳng hạn.
Huyên cười thông cảm với nhóm học sinh ấy, trong khi các em cũng hé miệng cười, nhưng là những nụ cười không trọn vẹn, phân vân, nghi hoặc, không tin lắm vào những lời nói của thầy giáo Huyên về vấn đề lí lịch sẽ được hoá giải hiện nay. Nụ cười của Huyên bỗng tắt ngấm khi anh thoáng thấy một học sinh lớp mười cau mày, tỏ vẻ không đồng ý với anh, chừng như vẫn còn muốn duy trì sự cố chấp về lí lịch.

3

Trong buổi sáng ở Đà Lạt, giữa học kì hai năm học 1980-1981, Huyên cùng với Ngàn, giáo viên thể dục, tình cờ gặp hai chị em Hồng Vàng, Cúc Trắng giữa đường ven hồ Xuân Hương, rồi cả bốn thầy trò, anh em cùng đến tiệm cà phê Thanh Thuỷ chuyện trò, góp ý. Chính lúc đó, Huyên đã nhớ lại buổi sinh hoạt ngoại khoá ấy giữa học kì một, cách đó chừng sáu tháng thôi, nhưng Huyên thấy không nên nhắc lại làm gì. Ngay cả khi viết thư trả lời lần đầu tiên cho cô học trò Hồng Vàng, thầy giáo Huyên cũng phân vân rồi quyết định không đề cập đến. Huyên cảm nhận ở Hồng Vàng, nỗi khúc mắc, vướng víu, phân vân về việc chọn lựa ngành nghề chuyên môn ngữ văn Việt trong đợt thi vào đại học, hoàn toàn không phải là nỗi băn khoăn, mâu thuẫn, luẩn quẩn của Nguyễn Du. Nguyễn Du chọn lựa triều đại trong “sự rạn vỡ ý thức trung quân Nho giáo”, giữa những trận bão táp máu xương từ ba hướng của thời đại ông, nên Nguyễn Du “chọn lựa rồi hối hận vì sự chọn lựa của mình”. Còn Hồng Vàng, sự chọn lựa của cô học trò lớp mười hai này lại hoàn toàn không phải là sự lựa chọn chế độ chính trị, mà chính là sự lựa chọn có nên hay không nên dấn thân trên con đường học tập, nghiên cứu văn chương hiện hành, và có thể cả sáng tác văn chương nữa. Con đường đó hiện tại vẫn còn nhiều áp đặt, trói buộc, thực dụng chủ nghĩa trong cách giáo dục công dân qua bộ môn ngữ văn chăng? Và liệu có chăng những trận bão táp từ ba khuynh hướng văn chương, lãng mạn, hiện thực phê phán và yêu nước – cách mạng, trong tâm tư Hồng Vàng?… Chính nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà nghiên cứu, phê bình Hoàng Ngọc Hiến, và bao người cầm bút khác nữa, kể cả bản thân Huyên, cũng thao thức, về hiện thực hiện có bị chính họ “tô hồng” bằng hiện thực nên có trong văn chương, về đặc điểm chung nhất của văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “hiện thực ‘phải đạo’”. Không ai nghĩ rằng hai tác giả ấy qua đó thể hiện sự chọn lựa chế độ chính trị. Các tác giả khác cũng thế, Huyên cũng thế. Thậm chí, không một ai phủ nhận tác phẩm trước đó của mình, cho dù họ ít nhiều có cảm giác thiếu trung thực vì “phải đạo” trong quá khứ. Chẳng hạn, lẽ nào hình tượng con người mới là hình nhân không băn khoăn, trăn trở, không biết tự vấn, mà thẳng tuột, luôn luôn lạc quan, xốc tới… Giới cầm bút chỉ muốn một sự cải cách, đổi mới, để văn chương phát triển, vận động đúng với quy luật nội tại của chính nó, và họ được trung thực hơn mà thôi. Còn ở Hồng Vàng, có thể giản dị, cụ thể là học làm gì, dấn thân theo con đường văn chương làm gì, khi văn chương bị chế giễu, chê bai đến thế!… Và điều thầy giáo Huyên đã góp ý cho cô học trò Hồng Vàng cũng đơn giản chỉ là, cứ dấn thân trên con đường văn chương theo sở thích, năng khiếu của mình, vì con người đi vào đời, tạo lập sự nghiệp bản thân, phục vụ xã hội, mà sai lạc với thiên tư, tư chất bẩm sinh, của bản thân là con người hỏng, không phát huy đúng tài sức bản chất của mình. Đồng thời, anh muốn động viên Hồng Vàng, hãy cố gắng, kiên quyết không thụ động học tập, không thụ động nghiên cứu, và cũng không thụ động cả trong sáng tác nữa nếu Hồng Vàng có dự định sáng tác, mà với ý thức góp phần tích cực tác động vào tiến trình, để văn chương đích thực là văn chương, tự do sáng tác phải thật sự tự do, và tự do đó phải gắn liền với chân thiện mĩ (thật, tốt, đẹp – thật tốt đẹp)…
Nhưng thầy giáo Huyên không muốn làm rối trí Hồng Vàng, vì thời gian ôn thi, luyện thi chỉ còn hơn hai tháng nữa… Dẫu sao vào cuối tháng ba năm 1981 ấy, buổi ngoại khoá cách đó khoảng sáu tháng về Nguyễn Du do đồng nghiệp lớn tuổi hơn – anh Nguyễn La Sắc – tổ chức và trực tiếp báo cáo chuyên đề, Huyên chỉ đóng góp phần nhỏ, đã được đánh thức, khơi dậy lại, trong tâm trí Huyên… Và cũng từ sự góp ý cho cô học trò Đà Lạt tên Hồng Vàng, thầy giáo Huyên cũng đang nhớ lại một “sự cố” khác trên con đường giảng dạy, học tập văn chương, trong năm học này, tại Đạ Nông…

T.X.A.
TP.HCM., 06:10, 01-03 HB13 – 10:50, 02-03 HB13 (2013)

(1) Trần Xuân An (10-1980), tham khảo từ nhiều tư liệu, như: Nguyễn Du, “Truyện Kiều”, Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, Trương Chính biên soạn phần niên phổ, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp tái bản, 1976, tr. 495-509.

(2) Đã đối chiếu: Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam liệt truyện”, tập 2, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 335-336.

(3) Bài nghiên cứu của nhà giáo Nguyễn Diệp, tháng 10-1980.

(4) Chỉ thị của Ban Bí thư, số 66 – CT./TW., ngày 26-02-1979: “Về một số công tác trước mắt đối với trí thức cũ ở Miền Nam”, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 40 (1979), Nxb. Chính trị quốc gia, 2005.

ĐÃ GỬI TTTĐT. HỘI NHÀ VĂN TP.HCM. (03-03 HB13 [2013])
& TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG (04-03 HB13 [2013])

http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/bai-moi-viet-3/hau-chien-khong-rieng-ai-iii

CÒN TIẾP

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , | Leave a Comment »