Chiếc cầu Ý Hệ (cầu Hiền Lương)

Người bắn nhau nhưng đâu phải bắn nhau, Bắn những ngoại xâm sau lưng nhau đó (TrầnXuânAn)

Archive for Tháng Mười Hai, 2011

Đọc truyện vừa của Nguyễn Ngọc Tư

Posted by Trần Xuân An trên 27.12.2011

hidden hit counter

Trần Xuân An

CĂN NGUYÊN SỰ HỦY HOẠI NHÂN TÍNH

(trong “Cánh đồng bất tận”, truyện vừa của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư)

(26-12 HB11)

Đã gửi đăng trên báo chí

Đã đăng ở Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 27-12 HB11

 

  

Nguồn ảnh: Google & Bing – MSN search

CĂN NGUYÊN SỰ HUỶ HOẠI NHÂN TÍNH
(trong “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư)

Trần Xuân An

Truyện vừa “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư làm dậy lên tiếng vang đã khá lâu. Không những trên báo chí văn chương và thời sự, nó còn được trao các giải thưởng lớn, lại được dựng thành phim, và những ngày bắt đầu công chiếu cũng thật rầm rộ. Đối với riêng tôi, văn bản truyện vừa này đã hai lần khiến tôi phải tìm đọc. Lần thứ nhất, đọc xong, thấy ghê gớm quá, nên tôi tìm những tác phẩm của các tác giả khác. Lần thứ hai, văn bản tôi đọc không phải trên báo, mà là cuốn sách con tôi mua về (1). Lần đọc này, tôi nghĩ nên viết lại những cảm nghĩ của mình.

Ngay trong những dòng đề từ, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã trích dẫn một đoạn luận giải Phật pháp về cách thức “hạn chế sân hận, trải rộng tình thương”, và bảo rằng, khi bị lâm vào cảnh phải giận dữ, thù hận, không thể lặng im, bất động, không thể không nghĩ tới kẻ gây nên sân hận cho mình, rồi Nguyễn Ngọc Tư cảm thán: “Đạt đạo mới khó làm sao”!

Trong khoảng năm mươi trang sách, nhân vật người cha (chỉ một lần được gọi tên là Út Vũ) chắc hẳn ở độ tuổi mới bước vào trung niên, hiện ra càng lúc càng rõ nét. Ở người cha này, nổi bật nhất vẫn là căm hận.

Bằng thủ pháp theo lời kể của Nương, con gái của chính Út Vũ, Nguyễn Ngọc Tư sắp xếp mạch chuyện ở thì hiện tại gồm hai phân đoạn đầu và hai phân đoạn cuối; bốn phân đoạn giữa lại ở thì quá khứ. Trong tám phân đoạn được nhà văn đánh số hẳn hoi: quá khứ soi rọi hiện tại, hiện tại chính là hệ quả của quá khứ ấy. Một phần khá lớn các tình tiết ở các thời đoạn đều nhằm khắc hoạ tính cách của Út Vũ.

Út Vũ, theo câu chuyện của cô bé Nương, được gọi là “cha tôi”. “Cha tôi” vốn là một chàng trai hẳn như bao chàng trai khác ở miền đồng bằng có nhiều dòng sông và chằng chịt kênh rạch. Cha tôi gặp mẹ tôi, thuở bấy giờ, còn là một cô gái trẻ. Đó là khi mẹ tôi đang ngồi khóc bên bờ sông. Và ông đã đưa mẹ về xóm ấp của mình, cũng trên một bờ sông. Hai người thành gia thất, sinh ra tôi và “thằng Điền”, em tôi. Cha tôi lo làm thợ mộc và chăn vịt, thường đi xa để dựng nhà, đóng bàn ghế cho thiên hạ hay lùa vịt đi ăn dăm ngày mới về một lần. Mẹ ở nhà chăm sóc hai đứa tôi. Nhà nghèo. Nhưng mẹ lại thích se sua lụa vải. Mẹ bán thân cho tên chủ ghe bán dạo vải vóc. Hai đứa tôi thấy được. Và mẹ bỏ đi, khi biết “chúng tôi” đã thấy sự thể ô nhục đó. Cha tôi khi đang dựng nhà, nghe tin, ông quay về, căm hận nhưng cố nén lại. Cha tôi đốt hết áo quần của mẹ, và đốt cả nhà, đưa hai đứa chúng tôi xuống ghe, sống đời du mục với nguồn vốn là bầy vịt đẻ…

Đó chính là bước ngoặt cuộc đời của Út Vũ và của hai đứa trẻ. Út Vũ lầm lì, ít nói, cộc cằn, thường cười gằn. Theo lời con gái Út Vũ, anh ta căm hận vợ mình, nên cũng thường đánh hai con, vì chúng là hình ảnh của mẹ chúng, mặc dù cũng thương yêu chúng một cách khá lạnh lùng. Căm hận vợ, nhưng Út Vũ không hề thắc mắc đến nguồn gốc xuất thân của vợ, vốn là một cô gái trẻ theo Út Vũ làm vợ, không cưới hỏi. Đến với anh không cưới hỏi, bỏ anh đi lại như thế đó! Út Vũ cũng không truy tìm vợ, sau khi vợ bỏ trốn, để phục hận, giả định như anh ta muốn phục hận. Cũng không thấy Út Vũ tìm kẻ đã quyến rũ vợ mình bán thân bằng vải vóc, để trả thù, giả định như anh ta muốn trả thù. Căm giận, hận thù, có đối tượng, nhưng Út Vũ lại trút căm hận vào hai đứa con! Và trên những dòng sông, dòng kênh du mục, trải qua rất nhiều lần Út Vũ trút căm hận vào những cô gái, đàn bà yêu Út Vũ, bỏ nhà, bỏ con để quyết theo anh. Theo lời Nương kể, suốt cả phân đoạn 5: Trong số các cô gái, đàn bà đó, vụ người đàn bà trẻ có gia sản đáng kể, có con xinh, quyết bỏ hết theo “cha tôi”, “cha tôi” chấp nhận, hẹn cô ta ở bến sông, nhưng đến khi cô ta đến, ông chở đi một đoạn rồi lại lừa cô ta lên bờ để bỏ rơi. Vụ này, có lẽ ấn tượng nhất hay chỉ là một ví dụ điển hình. Út Vũ cảm thấy hả hê với những lần bỏ rơi như vậy. Đó là phục hận, trả thù ư? Vả lại, lẽ nào Út Vũ không biết mình đang sống trong xã hội pháp quyền, và Út Vũ có thể nộp đơn đưa cả vợ lẫn kẻ bán vải kia ra toà về tội người vợ ngoại tình, gã đàn ông quyến rũ vợ người khác (thậm chí gạ gẫm vợ người khác để mua dâm – điều mà Út Vũ lẫn xóm giềng cũng không ngờ)? Toà án sẽ trừng phạt họ thay Út Vũ! Tác giả Nguyễn Ngọc Tư không lí giải. Người đọc chắc hẳn tự nhủ rằng, Út Vũ không tìm vợ, tìm kẻ mua dâm vợ để trả thù, phục hận, mà lại nhắm đến cả giới phụ nữ, trẻ con, hay bao quát hơn, Út Vũ trả thù đời bởi “hận đời đen bạc” – dòng chữ thường thấy nhiều người xăm trên cẳng tay! Anh ta thù hận cả loài người và cả trái đất này! Phải chăng là vậy? Tôi nghĩ, thực ra, Út Vũ lo làm lụng nuôi con, tuy cũng có đánh con, nhưng cũng chỉ đánh nhẹ tay, không đến nỗi gọi đó là đòn thù, đòn hận. Lắm khi, đó chỉ là biểu hiện của sự cộc cằn (có thể giấc ngủ không ngon…), vốn là hệ quả của chấn thương tâm lí. Cái chính là Út Vũ thích thú, hả hê khi bỏ rơi những người đàn bà con gái mê say Út Vũ, bỏ nhà, bỏ tất cả để quyết theo anh. Ở khía cạnh này, tôi nghĩ, cũng chỉ là một cách Út Vũ xoa dịu sự tổn thương lòng tự ái bị vợ bỏ, và động cơ chủ yếu là để trừng phạt, răn dạy những cô gái, đàn bà nhẹ dạ theo trai. Cũng cần nói thêm: Có thể Út Vũ cứ nghĩ vợ mình đúng như lời người quen kẻ biết nói, “bỏ nhà theo trai” (tr. 172), trong khi theo cô bé Nương, chỉ vì mẹ mình có thói ham mê vật chất, cụ thể là se sua áo quần. Thậm chí, trong phút đau đớn, nhục nhã nhất của đời mình ở cuối truyện, Nương cũng nghĩ thế: “kí ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc…” (tr. 212). Cũng có nghĩa là bị hiếp dâm, nhưng bất động chịu trận? Nhưng dẫu bán dâm lấy vải hay bởi lí do khó tin là hiếp dâm, bất động chịu trận, thì trong tâm thức của Út Vũ, vợ anh vẫn là “bỏ nhà theo trai”, và anh trừng phạt, răn dạy các cô gái, đàn bà nhẹ dạ theo anh cũng chỉ với động cơ này.

Thật ra, tình huống chính của truyện vừa “Cánh đồng bất tận” là lúc xuất hiện nhân vật thứ tư và suốt thời gian nhân vật thứ tư này có mặt trên chiếc ghe của ba cha con. Nguyễn Ngọc Tư đã mở đầu truyện bằng cảnh cô gái ăn sương bị một nhóm người, trong đó có vợ của một kẻ đã bị cô gái ăn sương này “rù quến”, tiêu phí ăn nhậu và trả tiền mua dâm đến một triệu hai, trên tổng số hai triệu đồng xoá đói giảm nghèo mới nhận được! Kết thúc tình huống truyện là lúc cô nàng bỏ đi.

Trong văn bản truyện, cô gái ăn sương này không thấy có tên, mặc dù cô nàng hiện diện đúng nghĩa là một hình tượng nhân vật với tất cả chiều kích tính cách của mình. Đây là một hình tượng được mạnh dạn khắc hoạ gần với các thông tin trên báo chí. Tuy nhiên, cô gái ăn sương của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm chất văn chương và khá độc đáo… Nói như thế, thật ra không mâu thuẫn, mặc dù báo chí vẫn viết theo cách của báo chí, trong khi đó, các nhà văn ở nước ta vẫn bị ám ảnh bởi hình tượng Thuý Kiều của Nguyễn Du với chủ nghĩa nhân đạo của ông. Nhưng Thuý Kiều lại là người tài hoa bạc mệnh, bán mình chuộc cha, và luôn luôn tủi nhục về thân phận của mình, đã hai lần tự tử và ít ra cũng năm, sáu lần có ý định tự tử. Không phải cô gái ăn sương nào cũng thuộc diện quý hiếm này. Ngoài ra, còn nhiều bài thơ, tiểu thuyết lừng danh trong nước viết về họ, như thơ Phan Văn Dật, Xuân Diệu, Tố Hữu, Trang Thế Hy (*)… chưa kể văn chương nước ngoài, như Trà Hoa Nữ (A. Dumas), thuộc trào lưu lãng mạn, hay xuất phát từ ảo tưởng chủ quan một cách chân thành… Và không phải các nhà văn chương không biết quan điểm của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, rồi cách luận giải của Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) về Kiều của Nguyễn Du, quan điểm của Nhất Linh, Khái Hưng về nhân vật Tuyết trong “Đời mưa gió” cũng đã bị phê phán một thời. Vì vậy, các nhà văn, thi sĩ thường nghiêng về phía thương cảm, sẻ chia, quy lỗi cho xã hội cũ hay đổ tại hoàn cảnh riêng. Tôi nói Nguyễn Ngọc Tư mạnh dạn bởi cô lại viết về cô gái ăn sương với bản chất đĩ của cô ta: “Chị cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào mòn tất cả đàn ông trên thế gian này. Lúc đầu là kiếm sống, nhưng lâu dần, sự chung đụng của thể xác làm chị nghiện” (tr. 200). Đó gần như là nhận định khái quát gần cuối truyện của Nương. Nhưng ngay từ đầu, sau dăm hôm, kể từ khi hai chị em chống thuyền ra xa, để nhóm người đuổi đánh cô gái ăn sương không bắt được cô ta lại, tiếp tục đánh đập, Nương đã trực nhận ra, khi cô ta nói: “… ‘Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…’. Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, ‘Làm đĩ’. Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền ‘Chắc mấy cưng không biết đâu’…” (tr. 160). Đó là lúc hai đứa trẻ ở bình diện thì hiện tại của câu chuyện, cũng đã lớn, tuổi mười bảy và trên mười bảy, tuy còn hoang dã và ngờ nghệch vì hoàn cảnh sống! Thế rồi, với lòng bao dung một cách tự nhiên, và do người cha đang độc thân, lại có một người phụ nữ trong gia đình, nên một tình cảm gì đó nẩy sinh trong lòng chúng như là tình cảm của hai đứa con đối với mẹ. Nhưng dần dần, chúng lại nhận ra: “Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, ‘Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…’. Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha” (tr. 164). Có lẽ chi tiết kinh tởm nhất là khi đã lén đến chòi của người cha, quyến rủ ăn nằm, rồi lại ngay trưa hôm sau, lúc cùng hai đứa con tắm sông, cô gái ăn sương này lại giở trò với đứa con trai của người cha ấy, trước mặt đứa con gái, nhưng cô ta bị hụt hẫng! Một chi tiết khác: Cô gái ăn sương này dám bán dâm công khai cho hai nhân viên phụ trách việc kiểm dịch cúm gia cầm, khi tính đem cả bầy vịt của gia đình Út Vũ đem đi tiêu huỷ, để hai tên kia tha cho đàn vịt ấy. Cô ta tưởng như vậy là đã cứu cả gia đình ba cha con Út Vũ. Thật ra, cô ta không thể hiểu nổi một điều sơ đẳng, rằng, chẳng có người đàn ông nào cam chịu như thế, mà chỉ khinh bỉ cô ta thêm mà thôi. Điều gì khiến cô ta không hiểu nổi? Chỉ vì cô ta làm đĩ đến tận bản chất, xem mua dâm bán dâm là quá bình thường chăng? Chút nhân tính còn lại ở cô ta là lúc “cha tôi cười, hơi giễu cợt, ‘Sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? Cứ để họ nghĩ vậy…’. Chị ngó trân vào cha, rồi day qua tôi, chị để rớt từng lời: ‘Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười’…” (tr. 204). Đó là khi cô gái ăn sương nghĩ sự hi sinh (quái dị!) của mình bị phản bội, bị thờ ơ và bị giễu cợt. Đây là một hình tượng sống động, với mục đích phê phán, nên không có gì thơ mộng hoá cả.

Hai đứa trẻ, thật ra, cũng đã mười bảy, mười tám cả rồi, nhưng chúng sống du mục trên sông nước và các bãi hoang, thỉnh thoảng có dừng thuyền ở một xóm làng nào đó để đổi chác tôm cá lấy hàng hoá cần dùng hay đến các chợ bán trứng vịt, nên chúng không bình thường. Đây là hậu quả của cha mẹ gây ra. Má đã thế, cha lại ra thế! Đặc biệt, Điền, đứa con trai, từ tình cảm đối với cô gái ăn sương ban đầu rất trong sáng (từng căm thù tình dục, thậm chí Điền đã đánh đôi chó đang giao hoan với ý thức đó), Điền vốn có cảm tưởng cô ta như là mẹ, rồi dần dà về sau, nhất là từ khi đã bị cô gái ăn sương đánh thức bản năng tình dục, nên Điền cũng thầm có tình cảm nam nữ với cô gái đĩ ấy (một thứ tình cảm bệnh hoạn, vì không còn ai khác!). Chính về sau, Điền đã bỏ cha, bỏ chị gái để chạy theo cô ta, nhưng không ai biết Điền đi về đâu, có gặp cô ta hay không, có bị tai nạn gì với đám trai làng trong kia hay không… Và ở Nương, sau khi cha mình bị bọn côn đồ cướp vịt đánh tả tơi, Nương lại thấy trong mình có một cảm xúc quái dị, bất hiếu: “Sẽ không ra gì nếu một đứa con gái tỏ ra mừng rỡ khi cha nó bị đánh tả tơi, nhưng rõ ràng cha tôi đang thay đổi, đang sống lại những cảm xúc bình thường nhất. Tôi thích ông như thế này”! (tr. 209). Đó là “bình thường” của bất bình thường! Hay bởi người cha của Nương trước đây kiêu hãnh quá, tàn nhẫn quá, mà Nương không hiểu đó là hệ quả của sự chấn thương tâm lí? Thật không thể hiểu nổi mạch tâm trạng này, vì đó là một trạng thái tâm lí bất bình thường của một cô gái lớn lên trong hoang dã. Và ngay cả khi Nương bị bọn côn đồ kia hãm hiếp cũng thế, cô nghĩ mình như món hàng bọn kia đã định giá, thậm chí, cô hầu như cam chịu: “… Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước. […] Ngoái nhìn về phía cha và thấy ông lầm lũi đằng xa, tôi mong ông đừng quay mặt lại. Sau đó thử chống cự một lần, rồi thôi, sự vùng vẫy chỉ kích thích lòng ham muốn. Tôi không muốn bị đè nghiến, bị vùi nghẽn trong bùn. Bọn chúng hơi khó chịu trước một đứa con gái yếu ớt và câm lặng…”. Nhưng chúng vẫn không buông tha cô gái, chúng thực hiện tận cùng hành vi đồi bại, thú tính. Thật ra, Nương cũng có lập luận theo kiểu “thắng lợi tinh thần”: “Chúng mày có lột bỏ cả trăm cả ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu đến tận tao”… “Vậy thì, cha ơi, quay lại làm gì…” (tr. 211), nghĩa là tâm hồn của Nương vẫn trinh nguyên! Không cần giải cứu! Thật kì quặc!

Phải chăng đó là cách ứng xử bất bạo động trước bọn người thú vật đang bạo hành? Không, không thể hạ giá phương thức đấu tranh bất bạo động như thế. Không thể hiểu sai những dòng trích luận giải Phật pháp ở phần đề từ: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì, dù chỉ một lời… […] … Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (tr. 154). Ai cũng biết mỗi câu văn đều có văn cảnh nhất định. Ai cũng biết mọi phương thức đấu tranh hay cách ứng xử thông thường ở đời phải tuỳ vào bối cảnh, tuỳ vào sự việc. Nếu mở rộng ra: Về quân sự, Phật giáo nước ta chẳng phải đã đánh giặc Tống, Mông – Nguyên bằng vũ lực – gươm đao, binh pháp – đó sao? Phải chăng chính tinh thần Phật giáo Việt Nam tích cực này cũng thể hiện trong lĩnh vực khí tiết, tiết hạnh? Trong thực tế, và cụ thể trong trường hợp như Nương, cũng đã có bao người liệt nữ nghìn thu ca ngợi vì biết tự chống lại, tự bảo vệ trinh tiết (2). Hay ít ra, cũng đề cao những người nữ khản giọng kêu cứu, quyết chống lại đến cùng, trước khi thúc thủ. Chính Nguyễn Ngọc Tư cũng thú nhận “Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều…”, đồng thời thể hiện quan điểm của mình ở phần đề từ, dẫn truyện: “Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu…[…] … mà không cho mình nhúc nhích…” (tr. 154).

Một hướng tiếp cận khác về tình huống và tâm thế này của Nương: Có thể từ nhiều năm qua, Nương suy nghĩ về trường hợp của mẹ, cố ý lí giải lệch đi, để biện minh cho mẹ. Và ý nghĩ đó đọng lại trong vô thức, ý thức của Nương, đến lúc này, bất giác chi phối Nương, khiến Nương cũng bất động, chịu trận như mẹ: “kí ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc…” (tr. 212). Tâm thế này còn bị chi phối bởi bản năng sống, thứ bản năng thường lấn át bản năng tự bảo vệ trinh tiết.

Và cũng ngạc nhiên biết bao, khi cuối truyện, tác giả lại xuất hiện, thay lời Nương kể chuyện, để kết thúc bằng mệnh đề: “là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn” (tr. 213). Tôi ngẫm nghĩ và thầm hỏi, sao tác giả không quy trách cho người lớn, không khuyến nghị người lớn những điều cần khuyến nghị, để trẻ con được hạnh phúc, trưởng thành trong văn hoá, ít ra là văn hoá dân gian đậm tính giáo dục nghìn đời của xóm làng (và dĩ nhiên, cả văn hoá trong những mái trường quê, dù còn tranh tre nứa lá)?

Tôi tạm gọi hai thì kể chuyện trong truyện vừa “Cánh đồng bất tận” là bình diện hiện tại và bình diện quá khứ. Và tôi cũng nghĩ, chính bình diện hiện tại đã lấn át bình diện quá khứ. Trong bình diện quá khứ, nổi bật lên sự trừng phạt, răn dạy hơi dã man, tàn nhẫn nhưng có ý nghĩa tích cực đối với loại đàn bà con gái bỏ nhà, bỏ chồng con theo trai. Trong bình diện hiện tại, cái bản năng tình dục của Út Vũ, của Điền, của cô gái ăn sương, nói chung, và bản chất người đã bị tha hoá của cô gái làm đĩ ấy lại nổi lên quá kinh sợ. Chính sự lấn át này, tuy phù hợp với kết cấu của truyện (quá khứ được hồi ức nhằm làm rõ hiện tại), nhưng giá trị, tác dụng của truyện ngắn đối với người đọc lại giảm. Một điểm nữa, cũng cần nêu dấu hỏi: Phải chăng nhà văn Nguyễn Ngọc Tư muốn tạo nên một “công án” về Phật pháp để người đọc suy ngẫm? Nếu như vậy, người đọc phải thuộc bậc thượng thừa.

Dẫu sao, “Cánh đồng bất tận” vẫn là một truyện vừa có nhiều khía cạnh buộc người đọc phải suy ngẫm. Văn bản truyện không có những điểm thơ mộng hoá thân phận, cảnh huống cô gái ăn sương (như tắm ở ao rau muống, chứ không phải ao sen!), cũng không có những trường đoạn đặc tả hành vi tình dục (nay thường được gọi là “cảnh nóng”!). Đó là một ưu điểm. Ưu điểm khác, ấy là giọng văn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Mặc dù có một số từ hơi ngồ ngộ, tuồng như dân gian quen dùng sai nghĩa, nhưng đâu đáng kể gì. Chất văn của Nguyễn Ngọc Tư biểu hiện một tài năng văn chương.

TXA.
03:07 – 09:49, 26-12 HB11
09:46, 27-12 HB11
__________________

(1) Nguyễn Ngọc Tư, “Cánh đồng bất tận”, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, giải thưởng ASEAN, Nxb. Trẻ, 2010, tr. 154-213.

(2) Đơn cử: Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam liệt truyện”, Bản dịch Viện Sử học, 4 tập, Nxb. Thuận Hoá, 1992 – 1993. Quan điểm tam giáo đồng nguyên (Nho Phật Lão cùng một nguồn đạo, cụ thể là đạo lí) thể hiện rõ ở “Liệt truyện”: “Liệt truyện” tôn vinh các liệt nữ, các tấm gương hiếu nghĩa, cao tăng, ẩn sĩ, dật sĩ cùng với các nhà nho nhập thế, làm quan có công trạng (theo quan điểm của triều Nguyễn)… Ở đây, tôi nhấn mạnh đến các liệt nữ ngày xưa.

(*) Chú thích bổ sung ở ngoài bài:

Bài thơ Đắng và ngọt (nhan đề khác: “Cuộc đời”), theo thông tin gần đây, là của nhà văn Trang Thế Hy (bút hiệu khác: Minh Phẩm). Trước 1975, khi nhạc sĩ Pham Duy phổ nhạc, cũng bài thơ ấy, nhưng lại đổi nhan đề là Quán bên đường, không ghi tên hay bút danh tác giả, chỉ ghi là “Khuyết danh”. Vụ việc này khá rắc rối là vì vậy, và cũng vì nhân chứng (nhà văn Bình Nguyên Lộc) đã chết. Do đó, cho đến nay, có người xếp vào loại tồn nghi.

Hiện nay, cũng có những kẻ gây nhiễu, nhằm mục đích xấu trước mắt và về sau.

Đây là một trường hợp chúng ta nên rút kinh nghiệm: tên tác giả (cùng với vài nét tiểu sử, ảnh, video…) luôn luôn gắn liền với tác phẩm (in ở sách; báo chí có giới thiệu tác giả; ở điểm mạng [webblog, website…]…).

Bài viết đã được tác giả chỉnh sửa, bổ sung một ít chữ,
nhưng nội dung không có gì thay đổi (28-12 HB11)

 

Cũng đã đăng:

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=14367
http://trannhuong.com/news_detail/12241/CĂN-NGUYÊN-SỰ-HUỶ-HOẠI-NHÂN-TÍNH
http://vanhocquenha.vn/view.asp?n_id=4714&n_muctin=24
http://www.nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/can-nguyen-su-huy-hoai-nhan-tinh.html

 

 

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | 5 Comments »

Đọc tiểu thuyết của nhà văn Phong Điệp

Posted by Trần Xuân An trên 23.12.2011

hidden hit counter

Trần Xuân An

BÔNG SEN TRONG NHỮNG GÓC KHUẤT VÀ TẬN ĐÁY HÀ NỘI

(Đọc “Lạc chốn thị thành”, tiểu thuyết của nhà văn Phong Điệp)

(22-12 HB11)

Đã gửi đăng trên báo chí

 

  

BÔNG SEN TRONG NHỮNG GÓC KHUẤT VÀ TẬN ĐÁY HÀ NỘI
(ĐỌC “LẠC CHỐN THỊ THÀNH” CỦA PHONG ĐIỆP)

Trần Xuân An

Cuốn tiểu thuyết được mở đầu bằng những trang nồng ấm tình bạn, tình người, quanh một bếp lửa hồng của hàng quà quẩy nóng, trong một chiều mưa lạnh ở một xóm nghèo Hà Nội. Hoá ra đó chỉ là buổi chia tay của nhóm nữ sinh viên các tỉnh sau khi tốt nghiệp đại học, để rồi có người về quê thăm nhà ít hôm, có người quyết ở lại, nhưng cùng hẹn lại gặp nhau ở đất thủ đô. Người đọc có thể tự hỏi, liệu có còn nồng ấm chăng, suốt gấn ba trăm trang của cuốn tiểu thuyết có tên gọi không mấy vui: “Lạc chốn thị thành”? Bước chân lạc loài khởi từ thời điểm nào? Xong đại học chữ, nay họ chuẩn bị bước vào đại học đời, phải chăng là thế? Hay suốt năm năm dài ở Đại học Luật Hà Nội, có sinh viên đã phải vào đời, “lạc chốn thị thành” sớm hơn? Và có gì cao hơn, xa hơn, sâu hơn, đằng sau “Lạc chốn thị thành”?

1. Vì sao “lạc chốn thị thành”?

Nhân vật xưng “tôi” để kể suốt câu chuyện có tên khai sinh là Kiều. Kiều dẫn đưa người đọc về làng quê của cô ở huyện nào đó thuộc tỉnh Thái Bình. Ở làng quê ấy, thật ra cũng không có ngôi nhà của cha mẹ. Kiều từ tấm bé đã phải nương tựa vào ông cậu, em ruột của mẹ, vì sau khi cha mẹ chia tay, mẹ Kiều cũng sớm mất. Trong ngôi nhà của ông cậu luôn thương yêu, đùm bọc Kiều, Kiều lại thường xuyên chịu đựng lời chì chiết, nói cạnh nói khoé của mợ. Bởi thế, chấp nhận “lạc chốn thị thành” – lạc trong mê trận tìm việc làm – ở Hà Nội với tấm bằng cử nhân luật khoa là con đường không thể khác, đối với Kiều.

Trong ba người bạn của Kiều, Nhung tuy gia cảnh đỡ hơn, nhưng lẽ nào ôm tấm bằng cử nhân rồi về lại làng quê! Con đường vào đời của Nhung gần với Kiều hơn. Trong khi đó, Phương từ Nghệ An ra. Nổi tiếng qua một cuộc thi hoa khôi, Phương từ đó trở thành con nuôi của một đại gia, hoàn toàn thoát khỏi cảnh quần nâu mụn vá, và đến nay, tốt nghiệp xong là đã có việc làm ngay! Có bí ẩn gì đằng sau từ “con nuôi”? Oanh, một thành viên trong “bộ tứ”, lại là cô gái phải bươn chải với trường đời, từ phía bên ngoài cổng trường đại học, với bước khởi đầu là mớ giày dép bán lẻ trên lề phố, sau mấy lần thi trượt! Mỗi người đều có lí do, hoàn cảnh để quyết vào đời ở chốn dễ tìm việc nhất (và nhiều cạm bẫy nhất), đó là Hà Nội, thủ đô của cả nước. Vả lại, còn quá trẻ, đương nhiên họ đều mang hoài bão lớn (hay tham vọng lớn), không thể chấp nhận mòn đi, gỉ đi, mốc meo số phận. Chỉ những ai già nua, mỏi mệt mới chép miệng thở dài an phận. Chỉ những kẻ yên vị trên phồn hoa mới cười khẩy trước hoài bão sống danh giá hơn của những người trẻ tuổi ở các tỉnh lẻ cách xa thủ đô Hà Nội. Chính người cậu của Kiều, một giáo viên trường làng, cũng bàn cạn lẽ với Kiều, rồi phải tán thành ý định của cháu: “Cháu nói cũng phải. Tuổi trẻ các cháu còn dài, có điều kiện thì cứ vùng vẫy” (tr. 32). Công cuộc “Đổi mới” đã tháo gỡ ách hộ khẩu, vốn đè nặng và chôn chặt mỗi số phận vào một địa phương thường trú nào đó, các trường đại học không còn đào tạo sinh viên theo kế hoạch cứng nhắc, ưu tiên cho đặc quyền, gây nên bao uất ức, nhưng đồng thời lại đẩy tuổi trẻ vào cuộc đua học tập, tranh sống, với sự chọn lọc, đào thải nghiệt ngã và cũng không phải tuyệt đối công bằng.

2. Thị thành Hà Nội ra sao với những người trẻ tuổi “lạc bước”?

Bước theo nỗi đoạn trường “lạc chốn thị thành” của Kiều và ba người bạn gái thân yêu của cô, những mảng tối của Hà Nội hiện ra thật nghiệt ngã, nanh nọc, ghê tởm đến hãi hùng. Bếp lửa hồng hàng quà bột chiên (quẩy nóng) của mẹ Năm, cái Nấm, nồng ấm, thân thương kia, hoá ra cũng quá đỗi hiếm hoi!

Thật ra, cũng không phải chỉ Hà Nội mới đến thế. Ngay trên chuyến xe về thăm quê, Kiều đã gặp phải những hành vi thô lỗ, lời nói tục tĩu, không một ai ra tay nghĩa hiệp bảo vệ cô, và cô không thể chịu đựng, phải xuống xe, đón xe khách khác. Khi trở lại Hà Nội, rời khỏi kí túc xá trường đại học, Kiều về ở chung với Phúc, một bạn sinh viên ngoài “bộ tứ”, tại một nhà trọ nhiều phòng ở, tính tiền theo từng tháng. Phúc lại cặp bồ, mang thai, tự phá thai theo kiểu nông thôn, rồi phải về quê… Có lúc Kiều phải đến biệt thự “bố nuôi” của Phương ở nhờ, cảm thấy ở đó đầy mờ ám… Kiều lại bị lừa mất một số tiền không nhỏ cho một văn phòng giới thiệu việc làm “ma”. Nhưng may thay, không phải văn phòng nào dạng ấy cũng “ma”. Nhung, “chị cả” của “bộ tứ”, tìm cho Kiều một chân gia sư kiêm bảo mẫu, từ một văn phòng giới thiệu việc làm có hoạt động thật sự. Tuy vậy, người dẫn đưa Kiều đến nhà gia chủ, sau khi xong việc, lại mở miệng đòi tiền “bồi dưỡng riêng” với lời lẽ quá chừng nanh nọc, trâng tráo, đầy hăm doạ. Sau một thời gian, lại bị cắt hợp đồng từ phía gia chủ, Kiều phải kiếm một nhà trọ khác. Nhà trọ khác ấy dựng trên hồ rau muống cũ, với chủ nhà là vợ của một công nhân, lời lẽ buông ra thường kèm theo những từ không mấy êm tai, tuy thực chất vẫn tốt bụng. Ở đấy, một sinh viên trường nghệ thuật sân khấu, điện ảnh lại cũng cặp bồ, phòng ở thường phát ra những tiếng động và rên rỉ của loài sinh vật đang cơn giao phối, bất chấp những phòng trọ khác. Kiều lại gặp Hạ, bạn học cũ, giới thiệu đến một văn phòng luật của người bà con. Đó là nơi của trung gian mánh mung về luật pháp, là “vệ tinh” của toà án, chạy án và mặc cả mức án. Từ nhân viên cho đến giám đốc, trừ Nam, đều có vẻ là loại bảo kê, “dân anh chị” và đã giở trò gây oan cho Kiều, như gây hỏng máy vi tính, bấm lén lệnh in khiến in thừa đến sạch giấy, buộc phải bồi thường, lại giấu sách tư liệu… Chỉ có Nam, cùng hoàn cảnh như Kiều, thương mến cô. Nam làm nhoà hình ảnh Ân, người bạn cũ cùng quê, cùng trường từ thời trung học, Kiều chỉ mến chứ không yêu. Nhưng Nam cũng đang phải lo “chăm sóc khách hàng” cho công ti luật, đến mức phải kiêm dắt gái, thậm chí suýt bị làm điếm đồng tính cho người ngoại quốc. Lại thất nghiệp. Lại đăng tên vào mục rao vặt – việc làm trên báo. Lại gặp chủ sao chụp sách lậu với lời thô tục thường xuyên đầu lưỡi… Trong khi đó, Oanh lại cặp bồ với một đại gia Hàn quốc luống tuổi cần con trai, nhưng thai Oanh mang lại là gái! Kiều lại phải thăm Oanh trong ổ chuyên phá thai, một trong những ổ dọc con phố nào đó ở Hà Nội chuyên hành nghề này! Phương cũng đã bị đuổi khỏi biệt thự của “bố nuôi”, sau khi người con gái thật của gã đàn ông tóc muối tiêu, thích bồ non ấy bắt quả tang cha ruột với Phương, không cho Phương mặc áo quần… Có lẽ đỉnh điểm của tai hoạ đối với “bộ tứ” này là lúc Oanh bị phát hiện nhiễm “ết” (AIDS., suy hoại tính miễn nhiễm mắc phải).

Qua hai, ba năm dài lạc bước tìm việc làm của Nhung và Kiều, “chốn thị thành” Hà Nội hiện ra với những góc khuất, mặt trái thật khủng khiếp. Hà Nội thanh lịch, Hà Nội văn hiến, trái tim của cả nước là có thật, nhưng ở những nơi khác, của những hạng người khác, chứ không phải của Kiều, của Nhung, khi cơ may chưa đến; cũng không phải của hai người bạn liều lĩnh, dại dột của họ – Phương và Oanh, một người còn hi vọng, nếu biết tự làm lại cuộc đời, và một người hầu như tuyệt vọng, chỉ còn biết sống lạc quan, sống cho ra người trong tình cảnh bi thảm đã thấy trước (tính ở thời điểm khi tác phẩm được xuất bản, 8 – 2005). Nếu không nương tựa vào nhau, nếu không có những con người nghèo khổ hay thô lỗ nhưng tốt bụng như mẹ Năm, bé Nấm, chị Hoa, và nếu không có người đồng cảnh ngộ như Kiều là Nam, họ sẽ hoàn toàn sống trong hoàn cảnh khủng khiếp, ghê sợ đó.

Nhưng một khi cái ách hộ khẩu đã được tháo gỡ, những trường đại học không cấm cửa một ai đạt điểm trúng tuyển và điều kiện tìm kiếm việc làm ngang bằng nhau, họ không thể oán trách cơ chế công quyền. Nếu có trách được chăng, là chỉ trách đời! Phải chăng là như thế?

3. Những con đường và sự nâng đỡ nào của những người trẻ tuổi?

Tiểu thuyết “Lạc chốn thị thành” của nhà văn Phong Điệp cơ hồ muốn nhấn mạnh đến điều này. Oanh cũng có thể thành đạt trên con đường kinh doanh, mặc dù ít nhiều cô cũng bị nhũng nhiễu bởi những viên chức quản lí thị trường, nếu cô gái này không đốt cháy giai đoạn bằng cách cặp bồ với những thương nhân ngoại quốc, không chịu trượt dài vào chốn “gái gọi cấp cao”. Phương cũng vậy, nếu Phương không cam chịu làm bồ nhí, gái bao hạng sang cho một đại gia. Chính sự thành công của Nhung đã chứng minh việc tự chọn đường của mỗi người tuỳ vào năng lực và quan niệm về lẽ sống thế nào. Nhung đã được tổng biên tập một toà soạn phát hiện, ưu ái, tạo điều kiện cho cô trở thành nhà báo, sau một loạt bài báo cô viết được đăng. Và Kiều, sau những vấp ngã, thất bại, cô vẫn giữ được sự trong sạch của tâm hồn và thể xác, để rồi cuối cùng, Kiều được trúng tuyển vào một công ti luật đứng đắn, nghiêm túc và thực sự có uy tín. Kiều sẽ là một luật sư trong tương lai, khi cô được tập sự ở một nơi như thế.

Nhà văn Phong Điệp cũng cho người đọc thấy, chính Phương lại tự mở ra một lối về với cuộc sống đáng sống, lương thiện, đàng hoàng, sau khi trốn vào Nam, tìm được việc làm, và đã gửi thư cho các bạn, hẹn một ngày về tươi sáng. Số phận Oanh đáng trách và đáng thương nhất. Oanh đã không đỗ được vào đại học, lại phải buôn bán trên vỉa hè, và điểm đỉnh thành công là thuê được một cửa hàng, nhưng lại phải phá thai, rồi bị dính “ết”. Cái may duy nhất của Oanh là nhờ có tấm lòng của bạn bè, Nhung và Kiều, nên cô tập sống lạc quan, có ích, và hơn thế nữa, có sáng tạo, khi biết kinh doanh mặt hàng mĩ nghệ, trang sức làm bằng gốm sứ, dây vải, trong quãng đời còn lại của mình, trước khi đi đến giai đoạn phát tác của căn bệnh quái ác ấy.

Nhà văn Phong Điệp cũng cho người đọc thấy, khi Oanh đã nhiễm “ết”, có nghĩa là rơi xuống tận đáy vực của số phận, cũng là lúc Kiều và Nhung dám can đảm đưa Oanh về phòng trọ của mình để ở chung. Thật không dễ dàng gì để đi đến quyết định sống chung như vậy. Đặc biệt, về yếu tố tâm lí, mỗi người rất khó vượt thắng được chính mình, cho dù kiến thức y học đã chỉ cho họ những con đường lây truyền chính. Đến như bác sĩ, trong điều kiện của bệnh viện, cũng có người không may bị truyền nhiễm, nữa là Kiều, Nhung trong một phòng nhà trọ kém tiện nghi, kém vệ sinh. Thế rồi, cuối cùng, tình bạn, lòng nhân đạo đã thắng, không những cứu được Oanh khỏi ý định tự tử, còn giúp Oanh tìm ra một con đường sống đàng hoàng, có ích, trong những ngày còn lại.

Tiểu thuyết của Phong Điệp gợi cho người đọc nhớ đến một châm ngôn tự đặt ra của H. de Balzac: “Nhà văn phải là người thư kí trung thực của xã hội”. Tuy thế, kết thúc của “Lạc chốn thị thành”, chính nhân vật xưng “tôi” để kể chuyện, cũng không đẩy người đọc đến chỗ bế tắc, tuyệt vọng, như thường thấy trong các tác phẩm hiện thực phê phán, mặc dù, đã viết rõ: “Tôi không có ý định viết nên một câu chuyện tròn trịa và có hậu”. Để giải quyết đến nơi đến chốn, đó chính là trách nhiệm của các giới chức khác.

Nhưng đó là phát ngôn của nhân vật kể chuyện. Còn Phong Điệp với tư cách một nhà văn? Trên bình diện này, có thể nói tiểu thuyết của Phong Điệp chú trọng nhiều đến chi tiết. Nhà văn cũng đẩy đưa nhân vật trôi giạt qua nhiều không gian sống khác nhau, tuy cũng ở Hà Nội và chút ít ở Thái Bình, nên khó có thể tập trung ngòi bút, bàn phím. Bù lại, nhà văn đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn khá rộng khắp, qua việc thể hiện sự lạc loài, trầm luân của Kiều và nhóm bạn. Điều tập trung Phong Điệp nhắm tới chính là nhân vật, đặc biệt là Kiều, thứ đến là Nhung. Mặt khác, cho dù Phong Điệp viết về sự suy đồi, chạy theo đồng tiền, nhưng không đánh thức dục vọng, lòng tham lam trong bản năng thấp hèn của con người, và cũng không nuông chìu dục vọng, khuyến khích lòng tham tiền bạc. Nhà văn giữ vững thiên chức phản ánh hiện thực mình đã trải nghiệm (chủ yếu bằng quan sát), và phần nào vạch ra hướng thoát, vươn tới, khẳng định sức mạnh diệu kì của nghị lực, bản lĩnh tự trui rèn, gieo được mầm hi vọng, niềm tin vào cuộc đời – cuộc đời mãi vẫn còn bao con người tốt đẹp ta chưa có cơ may gặp gỡ, quen biết. Và có lẽ trước khi trở thành nhà văn làm báo văn nghệ, Phong Điệp đã là nhà báo chuyên về mảng xã hội chăng? Tôi không được rõ, nhưng cũng đoán chừng như thế. Với giả định này, tôi nghĩ tiểu thuyết của cô gần với phóng sự – tiểu thuyết, một thể loại pha lẫn báo chí với văn chương, làm nên tên tuổi lừng danh của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… Tuy nhiên, tôi chỉ may mắn tìm được mỗi một cuốn “Lạc chốn thị thành” (đạt giải thưởng “Văn học tuổi 20”, 2005, do báo Tuổi Trẻ, Nxb. Trẻ phối hợp với Hội Nhà văn TP.HCM. tổ chức), trong các nhà sách tại thành phố tôi đang sống, ở thời điểm 2011 này, làm sao tôi có thể cả gan đi đến một nhận định khái quát về Phong Điệp! Vả lại, con đường văn chương của Phong Điệp hãy còn rất dài…

TXA.
15:25 – 10:02, 22-12 HB

Đã đăng:
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=14331
TranNhuongCom

 

 

 

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

Đọc tập truyện mới của nhà văn Trần Nhương

Posted by Trần Xuân An trên 21.12.2011

hidden hit counter

Trần Xuân An

CHUYỆN ĐỜI ĐÁNG BUỒN VÀ ĐÁNG CƯỜI
TRONG TẬP TRUYỆN LÔI CUỐN

(ĐỌC “Nhân tình của mẹ”, tập truyện ngắn nhà văn Trần Nhương)

(19-12 HB11)

Đã gửi đăng trên báo chí

 

 

 

CHUYỆN ĐỜI ĐÁNG BUỒN VÀ ĐÁNG CƯỜI
TRONG TẬP TRUYỆN LÔI CUỐN

Trần Xuân An

Có những nhà văn làm nhức đầu và xót tim người đọc, vì vấn đề đặt ra, chứ không phải do nghệ thuật thể hiện. Không chỉ thế, Trần Nhương còn khiến ai đến với tập truyện ngắn mới nhất của ông (1) có lúc phải bật cười vì sự hóm hỉnh, giễu cợt, trào lộng…

Chỉ 12 truyện gói gọn trong khoảng hơn 150 trang sách, Trần Nhương đã vạch ra nhiều khía cạnh của cuộc đời và con người, nhưng hầu như tựu trung vẫn là tình yêu đương, hạnh phúc, khổ đau, dục vọng có thật và cũng có thật sự giả trá…

Hạnh phúc? Thật ra cũng chẳng có truyện nào của nhà văn Trần Nhương tràn đầy hạnh phúc. Với cách nhìn của ông, đó chỉ là khát vọng cao quý hay thèm muốn tầm thường. “Nhân tình của mẹ” là truyện ngắn thật xót lòng, viết về một người phụ nữ đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần dưới sự bạo hành của người chồng vũ phu đến mức tàn ác. Gã đàn ông này đánh đập, chửi mắng vợ như cơm bữa, chỉ bởi những cớ rất nhỏ mọn, như một bữa ăn dọn trễ, một bát canh nguội hay vì gã về muộn, mẹ con đành phải ăn trước. Và gã còn có vợ bé nữa. Tất cả những khổ đau ấy đã đẩy người đàn bà giỏi chịu đựng của gã dễ sa ngã vào lòng một người đàn ông đã gần vào tuổi sáu mươi. Trong vài cuộc hẹn hò, có sự có mặt của đứa con gái – nhân vật kể chuyện. Lúc còn tuổi nhỏ, cô bé phản đối sự ngoại tình của mẹ. Người mẹ đành nghe theo con, cặt đứt quan hệ bất chính, và cũng không muốn nộp đơn li dị với người chồng vũ phu. Cô bé kể: “Cuộc đời mẹ tôi như đã chết, bà cam chịu, không muốn phá vỡ gia đình”, “mẹ tôi bảo mẹ sợ cái tiếng bỏ chồng lắm. Họ mạc đôi bên sẽ nhìn mẹ thế nào” (tr. 21). Khi đã lớn lên, lại chính cô chủ động hàn gắn cho mẹ với ông bạn già hơn ba mươi tuổi của mẹ năm nào, khi ông đang nằm trong bệnh viện, bệnh tình cũng đã đỡ nhiều! “Không biết từ lúc nào bàn tay mẹ tôi đã ngoan ngoãn trong bàn tay bác Quân. Mẹ tôi nhìn bác và nước mắt lăn trên gò má đang hồng rực lên… Tôi nhẹ nhàng ra ngoài ban công…” (tr. 24). Chỉ vậy thôi, nhưng mấu chốt của truyện chính là lúc cô bé còn nhỏ, đã phải thốt lên một cách khá già dặn: “Trời đất ơi, mẹ tôi vẫn nghĩ đến cái tiếng, cái bề ngoài, cái đạo đức giả” (tr. 21). Cũng có thể là câu nói ấy bật ra giữa mạch truyện, khi cô đã lớn và đang kể lại. Nhưng dẫu sao, nhà văn Trần Nhương cũng đã gợi mở cho người đọc thấy rằng, việc li dị, yêu cầu được bảo vệ trong trường hợp này là quyền con người, là nhân đạo mà xã hội đã qua rồi thời người phụ nữ bị tước đoạt. Đồng thời, hình như tác giả cũng đã trách các hội đoàn, cơ quan luật pháp và trách người phụ nữ kia không biết thực thi quyền của mình, để rơi vào tình cảnh phải là một người đàn bà tội lỗi.

Khát vọng hạnh phúc dưới sự bạo hành còn được thể hiện ở truyện “Em đã có một người đàn ông trong nhà”. Người đàn ông ấy chính là đứa con trai sớm khôn, biết bảo vệ mẹ, trước người bố thô bạo, bủn xỉn. Bạo hành không chỉ là đánh đập, kềm kẹp mà còn trong chuyện tình dục trước hôn nhân, trong truyện “Dảo tiên sinh”.

Suốt cả 12 truyện ngắn trong tập truyện này cũng chính là cái đạo đức giả và dục vọng có thật của con người.

Cái đạo đức giả, thậm chí, thích dối trá nhưng có quyền lực nên biến mọi người thành dối trá, thể hiện ở các truyện “Béo rồi”, “Sao lại thế?”, “Tư Vờ”. Đó là ông vua xây hành cung ở làng Bèo thời phong kiến xa xưa, phạt roi trượng những thần dân nói thật, khen thưởng những thần dân nói dối; là thủ trưởng một cơ quan tuyệt đối đạo đức, tuyệt đối sạch sẽ, tiệt trùng tất cả những vật gì có thể truyền nhiễm, đến mức không một ai có thể nghĩ ông ta nhiễm “ết” (AIDS), nhưng quả là ông bị dương tính thật, do một lần ngỡ “hương đồng nội” hoá ra gặp phải “son phấn rẻ tiền”; là một người giả dối, chắt bóp, tính toán từng xu, nổi tiếng với xược danh 4V (viết – vó – vườn – vợ), từ việc viết thuê lịch sử cơ quan, địa phương, viết thuê hồi kí để kiếm tiền đến việc bắt cá bằng vó lưới, lấn đất để lập vườn và cả quan hệ vợ chồng, cưới vợ, bỏ vợ liền tay! Nếu truyện “Béo rồi” phỏng theo mô-tip truyện Trạng Quỳnh dân dã, lấy chuyện thuở phong kiến trung đại và thấp thoáng chất liệu từ kịch Shakespeare (nhân vật Cléopâtre trong vở Antony – Cléopâtre) (2) để rút bài học kinh nghiệm cho hôm nay, thì hai truyện “Sao lại thế?”, “Tư Vờ”, tác giả khắc họa các nhân vật hư cấu, mang rõ dấu ấn của con người hiện nay, như một cách cảnh báo.

Dục vọng biểu lộ ở “một ông già cỡ bảy mươi tuổi” (tr. 7 – 8), trong truyện “Hạnh nhà tôi”. Đó là cụ già thèm hơi đàn bà theo nghĩa chính xác của từ và sự chăm sóc. Cụ tự biết mình “không còn khả năng gì đâu. Cô còn trẻ, thỉnh thoảng vui vẻ ở đâu cũng được” (tr. 9). Ông cụ đánh đổi cả gia sản, từ nhà cửa đến vườn tuợc, để người đàn bà một con còn ở tuổi khoảng ba mươi chấp nhận làm vợ của cụ, có lễ cưới và cam kết nhượng quyền thừa kế gia sản hẳn hoi. Trong khi đó, con cháu của ông lão này không phải ít, chỉ ngặt là chưa kiếm được người giúp việc chăm lo cho cụ! Thật ra, đây là một kiểu quan hệ đúng nghĩa là “hợp đồng kinh tế”, “hợp đồng lao động”, gồm cả “lao động tình dục”, dù chỉ là hơi hướm, vuốt ve… Truyện khiến người đọc cười sặc, cười ra nước mắt, và thầm hỏi, liệu người ta có thể mặc cả, giao kèo sòng phẳng với nhau đến mức trâng tráo đến thế sao! Chuyện lại do chính người đàn bà ba mươi tuổi ấy tự kể với nhân vật xưng “tôi” một cách thành thực, chất phác như thể đó là chuyện tự nhiên, không có gì lạ! Ở truyện này, thủ pháp cường điệu được vận dụng và nhân vật cùng bối cảnh thuộc địa bàn người Sán Dìu.

Một khía cạnh của sự đời là tình dục, còn được nhà văn Trần Nhương thể hiện ở khá nhiều truyện ngắn trong tập, kể cả những truyện viết về thời học trò mới xong bậc trung học, mới vào lính (“Thắng một không”), hay về người lính thời chiến tranh với hồn ma (“Chuyện tình ngày ấy”). Thực với người bạn gái con chủ nhà cho ở trọ thời sơ tán cũng có, mơ với hồn ma nữ sinh viên, chết tức tưởi vì bom ở phố Khâm Thiên cũng có. Và hầu như tình yêu phải gắn liền với tình dục như một tất yếu; thậm chí, tình dục như một cách lưu niệm, cho dù đó là tình yêu thoáng qua, trong một truyện như thể là tự truyện của tác giả (“Cơm bụi chấm com”)! Đúng hơn, ở phân nửa số truyện, Trần Nhương đã sử dụng thủ pháp chủ lực của truyện tiếu lâm dân gian hay “đòn hiểm” của Hồ Xuân Hương để chế giễu thói đời. Già đến chức cụ ông mà còn thèm hơi đàn bà là đáng cười! Cũng đáng cười thay là ông thủ trưởng cơ quan tuyệt đối tiệt trùng! Hoặc, tác giả đã vận dụng thủ pháp tự biếm để “chửi đời” như Tú Xương một thuở giao thời cuối thế kỉ XIX. Xét về kĩ thuật, thơ trào phúng, truyện tiếu lâm, trên thế gian này, việc sử dụng tính dục làm chất liệu gây cười, đả kích là khá phổ biến! Điều này, cũng có thể thấy ở những tranh cắt dán vi tính của hoạ sĩ Trần Nhương trên trannhuong. com, mặc dù chỉ ở mức đùa tếu trong thân tình. Mặt khác, ở một nửa số truyện khác, tình dục – tình yêu đương lại không phải thế. Nhà văn Trần Nhương khiến người đọc cảm thấy hình như ông muốn tô đậm sự thật ấy để xem thường đi, như ở các nước Phương Tây suy đồi với “cách mạng tình dục”? Đây là một vấn nạn xã hội trước tình trạng kích dục khắp mọi nơi, từ trang báo, mạng vi tính toàn cầu cho đến cách trang phục trên phố xá… Nếu ẩn ức tình dục đã được quy luật tự nhiên của cơ thể cân bằng qua mộng tinh, thuở trước (“Chuyện tình ngày ấy”), thì hiện nay, nó đã thành “tình dục lưu niệm” trên giường khu du lịch – nghỉ dưỡng (“Cơm bụi chấm com”). Thật ra, với quan niệm đứng đắn và ý thức thường xuyên tự nâng cao tâm hồn, cái siêu ngã hình thành ngày càng cao trong bộ óc cũng “kiểm duyệt” cả những giấc mộng tinh. Nhưng nếu đó là chuyện khiến nhớ mãi (“Thắng một không”) thì không thấy tác giả phê phán gì, hoặc đề xuất cách giải quyết như các nhà xã hội học, giáo dục học chân chính, nghiên cứu sâu về sinh lí học thanh thiếu niên… Ở lĩnh vực này, trên thị trường sách báo hiện nay, có truyện đúng là cường điệu, gây cười để đả kích, nhưng có truyện lại sa vào bình thường hoá, sành điệu hoá tình dục trước và ngoài hôn nhân, vô hình trung góp thêm mầm nguy cơ… Cái dục tính giao ai cũng có, phải chăng vấn đề là đừng đánh thức nó, nuông chìu nó…

Cũng vừa thật ở chuyện này, vừa giễu ở chuyện kia như thế, trong “Cây gạo làng Quỳnh”“Nàng Thảo của tôi”, nhưng hai truyện ngắn này chứa đựng hai vấn nạn của một giai đoạn lịch sử, cho dù đã qua, nhưng quán tính vẫn còn, chưa hẳn đã thật sự chấm dứt.

“Cây gạo làng Quỳnh” không phải là truyện trào lộng mà là truyện đầy tính chất bi kịch. Truyện được viết về nhân vật Liễm, có ông cụ thân sinh là một nhà giáo, hẳn thuộc lớp có điền thổ khá giả, đã hết lòng ủng hộ, cưu mang kháng chiến, đến khi chủ nghĩa Mao tràn sang, cụ bị đấu tố, đến mức phải tự treo cổ ở cây gạo hoa đỏ, bởi “ngày ấy đội cải cách là ông trời mà trên họ không có ai, họ làm gì là quyền của họ” (tr. 41). Có điều, khi ở khu hậu cần của chiến trường phía Bắc, Liễm lại quyết định thoát li gia đình, làng mạc, và quyết chí phấn đấu, lập công. Đến lúc từ chiến Miền Nam ra, vì bệnh, và trong gần mười năm gần đây, ông Liễm đã nhiều lần toan tự sát bằng dây thừng, treo ở một cành cây đầu ngõ (tr. 44), như một sự “quả báo” mặc dù ông không phải là thủ phạm, mà thủ phạm là đội cải cách ruộng đất năm nào. Vì thế, vợ ông Liễm đêm nào cũng nắm cổ chân chồng, sợ chồng lại đi tìm cách tự treo cổ: “Đôi bàn tay mỏng manh của Hoà rất khó có thể giữ chặt chân Liễm, nhưng tấm lòng người vợ là cái neo níu chặt con thuyền đang định ra đi…” (tr. 46). Đây là một truyện day rứt lòng người, mà đến nay, mọi người đều chép miệng, tự an ủi, thôi thì phải nhìn đại cục, tổng thể, quá trình, chớ nên cứ mãi sa cái nhìn vào bộ phận, tiểu tiết, thời đoạn. Đây là truyện bi kịch, chứ không thể là truyện cười, cho dù là bi hài.

Hài hước mới chính là thủ pháp chủ yếu ở truyện “Nàng Thảo của tôi”. Truyện mở đầu bằng sự phê phán chủ nghĩa lí lịch, và cả truyện là quá trình chứng minh trọn một đời nhân vật “tôi” với cái tên “Nguyễn Minh Tít”, dẫu lí lịch không Đoàn cũng không Đảng, nhưng vẫn trung thành đến mức răng long đầu bạc với “Nàng Thảo”, người vợ đột nhiên ở khoảng tuổi bốn mươi, đâm ra sùng bái, say mê sự kềm kẹp chồng, đến mức trám sáp nến vào các lỗ ở dây nịt quần, để “chống sự quan hệ ngoài luồng”, đến mức đặt máy ghi âm cả những lời ú ớ nói mê trong khi chồng ngủ, nhằm chống “ngoại tình tư tưởng”… Đây quả thực là một truyện ngắn kiểu tiếu lâm dân gian hay kiểu Aziz Nesin (1915 – 1995, tác giả “Truyện những người thích đùa”).

Bài viết dừng lại ở hai truyện ngắn này, như một khẳng định đây là tập truyện ngắn đầy sức lôi cuốn. Trong đó, tác giả không chỉ vạch ra cái giả trá của sự đời, thói đời, cái thật của dục vọng con người muôn thuở, vấn nạn xã hội thời đã qua và hiện nay, có khía cạnh quá đáng buồn, có khía cạnh rất đỗi đáng cười, có khi cười ra nước mắt.

TXA
3:39 – 20:47, 19-12 HB11
_____________________

(1) Trần Nhương, “Nhân tình của mẹ”, tập truyện ngắn, Nxb. Phụ Nữ, quý 4 – 2011, 160 trang, gồm cả bài bạt “Ẩm chập IC, tài hoa đa hệ” của Nguyễn Tham Thiện Kế.

(2) Màn 2, cảnh 5.

 

 

Nhà văn Trần Nhương
&
phó chủ tịch Hội Nhà văn Mông Cổ

Nguồn ảnh 1 & 2: Google search

 

 

Đã đăng ở TranNhuongCom, 20-12 HB11
http://trannhuong.com/news_detail/12116/CHUYỆN-ĐỜI-ĐÁNG-BUỒN-VÀ-ĐÁNG-CƯỜI-TRONG-TẬP-TRUYỆN-LÔI-CUỐN

 

 

 

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

MỘT TIỂU THUYẾT THỜI THƠ MỚI CÓ QUÊ GỐC QUẢNG TRỊ

Posted by Trần Xuân An trên 15.12.2011

hidden hit counter

Trần Xuân An

MỘT TIỂU THUYẾT THỜI THƠ MỚI CÓ QUÊ GỐC QUẢNG TRỊ

(ĐỌC “DIỄM DƯƠNG TRANG” CỦA PHAN VĂN DẬT, 1907-1987)

(14 & 15-12 HB11)

Đã gửi đăng trên báo chí

Bài đã đăng ở Tap chí Văn hóa Nghệ An, 16-12 HB11

Thi sĩ Phan Văn Dật (1907-1987), tác giả tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” (1935)
Nguồn ảnh: TC. Sông Hương (Google search)

MỘT TIỂU THUYẾT THỜI “THƠ MỚI” CÓ QUÊ GỐC QUẢNG TRỊ
(ĐỌC “DIỄM DƯƠNG TRANG” CỦA PHAN VĂN DẬT, 1907-1987)

Trần Xuân An

Được giới cầm bút và người đọc yêu thơ biết đến từ thời niên thiếu (1924), và từ đó, suốt mười mấy năm dài, Phan Văn Dật có thơ đăng trên báo chí. Khi ông bước vào tuổi 28 (1935), “Bâng khuâng”, tập thơ đầu tay của ông, được xuất bản. Hoài Thanh viết bài thẩm định, ngợi khen trên báo (và dăm bảy năm về sau, đưa vào “Thi nhân Việt Nam”, cuốn sách tôn vinh chỉ khoảng trên bốn mươi nhà thơ thuộc trào lưu “Thơ mới”). Nhưng không chỉ thơ, ông còn viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết đầu tay của Phan Văn Dật, “Diễm Dương Trang”, cũng vào năm 1935, lại được khẳng định ngay bởi một giải thưởng danh giá lúc bấy giờ: giải thưởng Tự Lực văn đoàn.

Những thông tin ấy, tôi và bạn bè thuở học trò đều biết, nhưng thú thật, rất đáng trách, hầu như không ai tìm tập thơ “Bâng khuâng” và tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” để đọc, mặc dù biết rằng chúng nằm đâu đó trong thư viện. Thời chúng tôi còn là sinh viên, thi sĩ Phan Văn Dật chỉ tồn tại trong “Thi nhân Việt Nam” với ba bài thơ trích từ tập “Bâng khuâng”; ông thường được gọi là nhà giáo, giảng viên đại học, nhà nghiên cứu Hán văn và lịch sử. Ông là một vì sao thơ văn sớm tắt, một vì sao đổi ngôi, sáng lên ở góc trời nghiên cứu, giảng dạy. Còn “Diễm Dương Trang” hoàn toàn bị lãng quên!

Mãi cho đến những ngày gần đây, tôi quá đỗi vui mừng khi tìm gặp “Diễm Dương Trang”, với dòng ghi chú, “theo bản in trên báo Trung Bắc tân văn, Hà Nội, 1935”. Cuốn tiểu thuyết gần hai trăm trang ấy đã chiếm hết tâm trí tôi… Trước hết, tôi phải tự tìm cách giải đáp cho chính mình về sự quên lãng của người đọc, trong Nam cũng như ngoài Bắc, đối với “Diễm Dương Trang”.

1. Một tiểu thuyết có cốt truyện

Phan Văn Dật theo lối viết tiểu thuyết khá hiện đại của thời bấy giờ, nên chúng ta có thể thấy câu chuyện được diễn biến chủ yếu theo trình tự thời gian nhưng vẫn xen vào những chương đoạn hồi ức, nhằm làm sáng tỏ những góc khuất trong tâm trạng, bước ngoặt cuộc đời của nhân vật.

Câu chuyện bắt đầu ở bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng. Trần Hoài Trang, một thanh niên khoảng chừng 25, 26 tuổi, đang trong những ngày phục hồi, bồi dưỡng sức khoẻ, sau những trận ốm sốt rét và bởi vết thương trong tâm hồn. Đi cùng với Trang là cậu bé giúp việc tên Cồ, trước kia người ta hay gọi là tiểu đồng. Trên bãi biển Mỹ Khê này, anh ta tình cờ gặp hai mẹ con, người con là cô gái còn trẻ nhưng đang mang tâm bệnh. Tình cờ anh cũng gặp được Oánh, bạn cũ. Oánh chính là con trai của người mẹ kia, anh trai của cô gái nọ: bà Nghè Thuyên và cô Tư Nga. Câu chuyện lại quay về quá khứ, cho người đọc biết: Trang vốn là một lưu học sinh trường trung đẳng ở Hà Nội, vì cha đột ngột mất, nên phải về Huế, đành đoạn bỏ học dở dang, nộp đơn xin đi làm, để có đồng lương giúp mẹ và hai em. Trang được bổ đến Toà Công sứ tại một tỉnh cao nguyên, với vai trò nhân viên thư kí. Nhưng khi gia đình đã tạm ổn với cửa hàng buôn bán nhỏ, Trang muốn thôi việc, để sống cuộc đời một người hành nghề tự do. Chắc hẳn anh ta không muốn bị ràng buộc vào guồng máy nhà nước thực dân. Và còn bởi một lẽ khác, Trang đang nuôi mộng trở thành thi sĩ. Nhưng phải đến khi Trang nhận được thư phụ tình của Dinh, cô bạn từ thuở bé và hiện là người yêu của Trang, Trang đau đớn tột cùng, quyết tâm bỏ việc ở Toà Công sứ để đi chung vốn làm lãnh hành (thầu khoán). Anh bị sốt rét ngã nước trong những tháng ngày lãnh hành này. Và hiện tại, ở bãi biển Mỹ Khê, anh đang tự chữa cả hai căn bệnh cùng một lúc: tâm bệnh và thể bệnh. Qua những lần gặp gỡ trên bãi biển, Trang thầm yêu Nga. Qua cậu bé Cồ, Trang biết Nga cũng đang đau khổ đến mức trở thành tâm bệnh, vì người yêu là Thạch, sinh viên trường thuốc, vừa mới chết vì bệnh. Trong những ngày Oánh ở đó, lại có thêm hai nhân vật xuất hiện: ông Cửu Bạch cùng viên tham tá trẻ tên Hồng. Tham Hồng cũng bị goá vợ cách đây mấy năm. Tham Hồng chừng như cũng muốn tục huyền với Nga. Trong tình huống đó, Trang xem ra lép vế nhất, nhưng chính Nga lại tỏ ra có cảm tình với Trang nhiều hơn. Tuy vậy, Nga vẫn đang ở trong giai đoạn khổ đau vì mất Thạch, lòng lạnh giá. Lại một tình huống nữa: Oánh mời cả nhà và Trang đi chợ đêm Đà Nẵng. Nhưng Nga đang ngụp lặn trong trạng thái chợt vui chợt buồn của một người sầu khổ, Nga không muốn đến những chỗ đông người. Ngờ đâu, khi Trang vào chợ đêm ấy, lại gặp viên tham tá Hồng đang đi cùng gia đình Nga, gia đình người tư sản Cửu Bạch, Hồng lại đi kề Nga nữa! Trang thật sự rơi vào tuyệt vọng. Hoá ra, về sau, Trang mới biết, chính vì cô con gái của Cửu Bạch, nữ sinh Đồng Khánh tên Trà, mời ép, đến mức Nga không thể từ chối! Và chỉ vậy mà thôi. Thế rồi, gia đình Nga trở về Huế. Trang cũng về nhà ở ngoài đó. Gia đình Trang lại muốn Trang lập gia đình, quên hẳn Dinh đi. Trang tìm cách lên trang trại của gia đình Nga để thăm viếng… Lên đến nơi, Trang càng biết rõ đó là cơ ngơi của ông Nghè Thuyên, một người đã đỗ tiến sĩ, nhưng tính tình, theo nguyên văn trong tiểu thuyết, là “phóng khoáng, quả hợp” (thích tự do, ít hợp ý với những kẻ tầm thường khác), vì “thời buổi khó khăn” (dưới ách thực dân) nên không ra làm quan, mà tìm về một miền đất dưới chân rừng núi để lập trang trại, có tên là Diễm Dương Trang. Trong gần một tháng, Trang có nhiều lần từ quê nhà, ngoại ô phía đông kinh đô Huế, đạp xe lên ngoại ô phía tây, thăm Diễm Dương Trang. Trái tim của Nga hình như đã hồi sinh, ấm lại. Giữa Nga và Trang hình như đã nẩy sinh tình cảm, nhưng cả hai đều im lặng. Trang chưa một lần dám ngỏ lời. Trang rụt rè sợ thất bại, bởi vết thương phụ tình do Dinh gieo vào lòng anh ta. Nga lại đang phân vân, giằng xé giữa sự chung tình với Thạch, người đã khuất, và chút tình với Trang. Đó là chút tình mới âm thầm chớm nở trong kìm nén, Nga giấu tận đáy sâu lòng mình. Thế rồi, ông Cửu Bạch cùng vợ từ Đà Nẵng ra, có cả cô con gái tên Trà, nữ sinh Đồng Khánh, từ Huế lên. Thì ra, ông Cửu Bạch ra thăm để ngỏ lời dạm hỏi Nga cho viên tham tá Hồng, bạn nhờ vả vong niên của ông ta. Cũng do sự hiểu lầm của Nga trước sự ngẫu nhiên xảy ra – bởi cành lá dâu bật lên, rơi bụi dằm vào mắt Trà, lúc cô rủ Trang hái dâu –, và cách cư xử rất tân thời của Trà trong tình huống ấy, Nga trốn, tránh mặt Trang. Trang không thể tìm gặp Nga. Và Trang đinh ninh anh hoàn toàn thất thế, mất hẳn Nga. Anh về nhà, quyết định trở vào tiếp tục làm thầu khoán như cũ, lao vào công việc để quên đi nỗi đắng cay. Trước khi lên đường, anh vẫn còn đạp xe lên lại Diễm Dương Trang để chào gia đình bà Nghè Thuyên, đặc biệt là Nga. Anh bất ngờ khi biết Nga đã từ chối lời cầu hôn của Hồng, trước mặt gia đình mình và gia đình ông Cửu Bạch. Và bấy giờ, ở tình huống anh lên để chào từ giã, Oánh và bà Nghè Thuyên thì đã quá hiểu Trang, lại thương anh rụt rè, nhút nhát, nên họ mớm lời cho Trang, để Trang đủ mạnh dạn tìm gặp Nga, ngỏ lời. Trước sân nhà, dưới bóng trăng, thay vì với ý nghĩa mừng đám cưới Nga – Hồng, là ý nghĩa giao ước giữa Nga – Trang, Trang trao chiếc nhẫn vàng cho Nga. Trang nâng tay Nga, đeo hẳn chiếc nhẫn ấy vào ngón tay Nga. Ngay lúc đó, Trang nói: Nga đau khổ, Trang cũng đau khổ; hai người đau khổ có thể giúp nhau làm lành lại vết thương trong tâm hồn nhau. Nga, bấy giờ, theo nguyên văn trong tiểu thuyết, “run rẩy, ái ngại: Ta liệu có gây nổi hạnh phúc cho nhau không?”. Và “dưới bóng trăng vằng vặc”, họ đã “tay cầm tay, nhìn nhau, yên lặng…”. Tiểu thuyết kết thúc với ba dấu chấm lửng.

2. Tiểu thuyết tâm lí: Quá trình sống lại của hai tâm hồn

Đây là cuốn tiểu thuyết thuộc trào lưu lãng mạn, xuất hiện vào những năm đầu giai đoạn cực thịnh của văn chương quốc ngữ theo hệ abc, 1930-1945. Phải một năm sau, 1936, mới bắt đầu cao trào dân chủ ở nước ta, bấy giờ còn là thuộc địa, do sự cầm quyền của Mặt trận Bình dân ở Pháp. Chính trong thời đoạn 1936-1939 ấy, mới có thể nở rộ trào lưu hiện thực phê phán, trên văn đàn công khai (tuy công khai trong cao trào dân chủ, nhưng chiếc kéo kiểm duyệt sắc nhọn, khổng lồ thường xuyên treo lơ lửng trên đầu mỗi nhà văn chương).

“Diễm Dương Trang”, vì thế, qua cốt truyện, chúng ta có thể nói, chủ yếu chỉ là một chuyện tình yêu đương. Tuy nhiên, so với tác phẩm văn xuôi của các nhà văn cùng thời đoạn, như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam…, “Diễm Dương Trang” vẫn có nét độc đáo ở khía cạnh chủ đề, bên cạnh bối cảnh là bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng và ngoại ô kinh đô Huế. Mặc dù Nhất Linh, Thạch Lam đều là người gốc Quảng Nam, nhưng bối cảnh tiểu thuyết, truyện ngắn của hai tác giả nổi bật này vẫn là Bắc Bộ. Khái Hưng thì đã đành là rặt Bắc Bộ rồi! Mặt khác, tình yêu đương nam nữ trong văn xuôi của các tác giả ấy được đào sâu, thể hiện ở khía cạnh khác với Phan Văn Dật. Nói cách khác, “Diễm Dương Trang” có cùng đề tài là tình yêu đương nhưng lại khác hẳn về khía cạnh chủ đề, so với “Hồn bướm mơ tiên”, “Đoạn tuyệt”

Thi sĩ đồng thời là nhà tiểu thuyết Phan Văn Dật đã khai thác đề tài yêu đương ở tình huống đặc biệt, để tác phẩm thật sự có nét độc đáo. Hai nhân vật chính đều đang ở trong trạng thái trầm kha về bệnh tâm lí, cần đi an dưỡng, và họ đã gặp nhau ở bãi biển Mỹ Khê. Tuy thế, căn bệnh tâm lí của hai người vẫn khác nhau. Ở Trang, đó là nỗi đau cùng cực của một kẻ bị phụ tình. Dinh, người yêu của Trang, đã phũ phàng dứt tình với anh ta để đi đến hôn nhân với một người danh giá hơn Trang về bằng cấp học vấn và địa vị xã hội. Trong sự tổn thương vì bị phụ tình của tâm hồn Trang, còn có nỗi tự ái bị xúc phạm. Ở Nga, cô gái ấy không khổ đau vì bị phụ tình, mà khổ đau vì người yêu sớm qua đời. Người nữ Việt Nam ngày xa xưa và ngay thuở bấy giờ, trong trường hợp đó, thường là họ tự chít khăn tang lên trái tim mình, tự biến trái tim mình mãi mãi thành bàn thờ với hình ảnh người đã khuất. Nhưng, dẫu chỉ xét trên mẫu số chung của con người, không phân biệt bản sắc văn hoá dân tộc, thì cũng có ai lại không khổ đau trong tình cảnh đó!

Nếu cho rằng di chứng bệnh sốt rét ở Trang không đáng kể, thì Trang và Nga đều chỉ là hai bệnh nhân tâm lí. Họ không hẹn nhau, nhưng cùng tìm cách chữa bệnh cho chính mình, theo kiến thức y học phổ thông thuở bấy giờ, bằng cách thoát ra khỏi khung cảnh cũ, không gian sống thường ngày, để tìm đến với thiên nhiên, sóng biển và không khí trong lành. Với tâm cảnh của mỗi người, hẳn mọi cảm xúc đều héo úa. Ở họ, tình yêu khó đâm chồi, nẩy lộc. Trong trường hợp như Trang, có người vĩnh viễn căm thù phụ nữ. Đối với Trang, bệnh trạng nhẹ hơn, anh ta chỉ sợ hãi tình yêu đương, sợ hãi thất bại, cự tuyệt. Trang lâm bệnh mặc cảm tự ti, không những tự ti khi nghĩ đến địa vị người chồng của Dinh, mà tự ti với cả Thạch, người sắp là ông “đốc-tờ”, nhưng sớm mất. Thạch của Nga đã chết, nhưng chừng như vẫn còn đó. Trang đến sau Thạch, lại kém sút Thạch quá nhiều! Trang chỉ là viên thư kí quèn, là viên thầu khoán tập tành, phải chung vốn với người nhiều vốn hơn. Còn giấc mộng thi sĩ của Trang cũng bị cả viên tham tá Hồng chế giễu!… Tác giả không gọi hẳn ra căn bệnh của Trang còn là mặc cảm tự ti, nhưng sự rụt rè, nhút nhát thái quá ở Trang, đến mức ta thấy Trang thật tội nghiệp, mặc dù vẫn trân trọng anh… Và cảm thấy thương Trang nữa, như Oánh cùng bà Nghè Thuyên đã phải mớm lời cho Trang, để Trang đủ mạnh dạn ngỏ lời với Nga!… Nhưng dẫu sao, Trang không bị chút áp lực xã hội nào khi anh ta dấn bước vào cuộc tình mới. Trang đâu phải là người phụ tình, ruồng rẫy Dinh! Trang có quyền tìm kiếm tình duyên mới. Còn ở Nga? Dĩ nhiên Nga cũng chẳng tội tình gì. Nhưng văn hoá Việt Nam thuở bấy giờ vẫn rất ngưỡng mộ những người con gái, trong trường hợp như Nga, biết để tang người yêu mới khuất. Như đã nói, con người dân tộc nào cũng thế, thời nào cũng thế, nhưng trong không gian văn hoá Việt thuở đó, lòng thuỷ chung vốn rất được đề cao. Chính sự đề cao ấy mặc nhiên đã trở thành một ràng buộc, áp lực có tính chất đạo đức, và người ta cảm thấy vinh dự khi giữ được lòng thuỷ chung cao quý như vậy.

Có thể nói, ở cả Trang lẫn Nga, tâm hồn họ đều đã héo hon, đều đã chết, bởi hai vết thương tình duyên khác nhau. Và suốt cả cuốn tiểu thuyết là cả một quá trình sống lại của tâm hồn hai người. Người đọc nếu đặt mình vào không gian và thời gian văn hoá thuở bấy giờ, mới có thể thấu hiểu được họ.

Tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”, với sự triển khai dần cốt truyện của tác giả, đã cho người đọc thấy rõ quá trình ấy, với những ngộ nhận ngẫu nhiên gây ra không ít khổ đau, có lúc tưởng chừng hoàn toàn tan vỡ, nhất là sự xuất hiện của người thứ ba – viên tham tá Hồng –, kẻ có thể một lần nữa giết chết tâm hồn của cả hai người. Thi sĩ Phan Văn Dật, ở lĩnh vực tiểu thuyết, tỏ ra ông còn là một nhà văn tinh tế, sâu sắc về tâm lí, cụ thể là các diễn biến tâm lí, và ông để cho nhân vật thể hiện các trạng thái tâm lí của mỗi người trong những cử chỉ, dáng vẻ, lời nói ở nhiều tình huống khác nhau.

Cùng với dấu chấm lửng cuối cùng, câu áp cuối của tiểu thuyết “Ta liệu có gây nổi hạnh phúc cho nhau không?” là một câu kết nhưng lại mở ra các hướng khác nhau: một gia đình đầm ấm, sáng tươi hay lạnh băng, tăm tối?

Tôi nghĩ rằng, chính nhờ biết khám phá, khai thác khía cạnh này trong đề tài lớn là tình yêu đương, nên giải thưởng danh giá Tự Lực văn đoàn đã được trao cho Phan Văn Dật.

2. Bối cảnh tiểu thuyết: Nền nếp xưa và sự hãnh tiến của lối sống tân thời

Phan Văn Dật là thi sĩ, nhà văn xuôi thuộc khuynh hướng lãng mạn, tuy có ý thức vươn tới những giá trị mới, đương thời, nhưng ông cũng đồng thời thể hiện sự luyến tiếc, giữ gìn, trân trọng những nền nếp văn hoá nghìn đời của dân tộc. Ở bà Thị Tốn, mẹ của Trang, cũng như ở bà Nghè Thuyên, mẹ của Oánh và Nga, hình ảnh người mẹ Việt Nam được thể hiện rõ. Họ là tiêu biểu cho bản sắc nghìn xưa, nhưng không hề cổ hũ. Bà Thị Tốn cũng chỉ thuộc tầng lớp trung lưu, từng suýt lao đao ở bờ vực của nghèo khổ, đã bản lĩnh vượt lên. Bà Nghè Thuyên dù có trang trại, nhưng cũng chưa được gọi là điền chủ. Sự sung túc hiện tại là nhờ Oánh làm nghề thầu khoán. Ở Nga cũng thể hiện nền nếp gia phong đáng quý, đặc biệt trong quan hệ với Trang. Và hầu như Phan Văn Dật, về phương diện này, không gần gũi với những tác giả hiện thực phê phán cùng thời, đặc biệt là trong thời đoạn 1936-1939… (nói như vậy, cũng cần thấy Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao phê phán những địa chủ đáng phê phán, chứ không phải như bà Nghè Thuyên). Tuy thế, mặt khác, Phạm Văn Dật lại gần gũi với khuynh hướng văn học hiện thực phê phán ấy, khi hướng ngòi bút của mình vào đối tượng viên chức hãnh tiến của guồng máy thực dân hay người tư sản hãnh tiến. Tác giả không phê phán cả thành phần, mà chỉ khu biệt những cá nhân hãnh tiến mà thôi.

Phan Văn Dật khắc hoạ nhân vật bằng đối thoại, nét mặt:

“… – Kìa anh Trang, hồn thơ gởi đâu mà ăn lơ lửng thế?
Oánh làm bộ rầy chàng, rồi lại muốn khoe bạn cùng quý khách:
– Anh Trang tôi đây ngoài các công việc kinh dinh ra lại còn là một nhà thi sĩ.
Hồng, ông khách tuổi trẻ, trừng mắt một cái rất nhanh, ra dáng hoài nghi, nhưng chẳng để ý gì đến Trang, sẽ đạo mạo nói:
– Nếu thật xứng với cái danh hiệu ấy thì còn gì hay bằng!
Lại sợ chưa bày tỏ đủ ý kiến mình, liền nói tiếp, giọng mỉa mai, dằn từng đoạn một:
– Phải, cũng có thi sĩ và thi sĩ… Nếu chỉ thuộc đôi chút lề lối, biết qua một mớ niêm luật, xin chớ vội tưởng mình là thi sĩ. Phải có thiên tài, cái đó là lẽ cố nhiên; tình cảm phải cho dồi dào, nhưng cũng chưa đủ; còn cần phải học, học cho có hàm súc, cho có nhiều công phu; mới mong viết một lời nghe được. ‘Muốn thì được’, chỉ là một câu nói để khuyến miễn người đời, không thể dùng về trường hợp nầy…”
.

Khi Oánh chân tình giới thiệu về bạn mình là Trang với niềm tự hào, viên tham tá Hồng ngay lập tức phơi bày bản chất kém lịch sự, thiếu văn hoá của y. Y không những bộc lộ sự ganh ghét nhỏ mọn bằng “đòn đánh phủ đầu”, ngạo mạn “lên lớp, dạy dỗ” Trang, một người mới gặp lần đầu, mà còn cả sự thiếu tôn trọng Oánh. Tham tá Hồng quả thực là một tên hãnh tiến, quên bẵng mình là nô lệ của thực dân!

Còn đây là một đoạn hoạt hình biếm hoạ về nhân vật Cửu Bạch:

“… Ông Cửu Đùm nãy giờ nghe bạn tri kỉ của mình nói, vừa hiểu được mấy câu sau, liền vội ngắt lời Hồng:
– Ngài Tham nói quả là chí lí! Tôi tuy quê mùa, học vấn còn kém cỏi lắm, nhưng cũng phải biểu đồng tình về sự đó. Hồi tôi mới ra đời, lăn lộn mười năm, đủ từ Nam chí Bắc, từ Lào sang Mên, chẳng nơi nào là không đến, chẳng nghề gì là không làm, mà trắng tay vẫn hoàn tay trắng. Mãi sau về đây buôn bán vụn vặt, cho thuê xe, cho vay tiền góp sơ sài mà mới gây dựng ra cái gia thế ngày nay. Ai dè bôn tẩu không nhằm chi, về nằm co lại tự dưng có của cải, mới biết lời tục không nhầm, có an cư mới lạc nghiệp!
Ông Cửu nói đến đó, liền buông một chuỗi cười dài, xoè cả cây quạt rộng bằng nửa cái nia, vung phành phạch. Ông cất cốc rượu, ngả người ra, nốc một hơi rồi mới ngó tất cả mọi người thử có chịu mình là một bậc lão thành lịch lãm.
Thấy Hồng cứ gật đầu, ông Cửu Đùm thích chí vểnh bộ râu tôm, ngất ngưởng kết luận rằng:
– Phải, trong mười mấy năm trời tôi phong trần đã lắm. Những mùi đắng cay mặn lạt ở đời tôi đều nếm qua, nên phàm việc gì cũng gọi là lịch thiệp. Bây giờ nhờ ơn trên đã được dư ăn dư để, nhưng vâng lời ngài Tham tôi còn muốn đem những chỗ biết hẹp hòi của mình ra gánh vác việc đời cho khỏi phụ lòng anh em mong đợi.
Nói dứt lời, ông Cửu đưa tay nắn lại cái vành khăn, chỉnh nét mặt, có ý làm ra vẻ nghiêm trang cho xứng với cái trọng trách mình sắp ra đảm nhận…”
.

Phan Văn Dật tiếp tục phê phán người tư sản hãnh tiến này:

“… Nên mỗi khi ông xét đoán, phê bình về một người nào, tất ông lại lấy tư bản ông làm mực thước. Ai giàu hơn ông là người ấy giỏi mà ai kém ông là người ấy còn vừa, chí như những hạng nghèo kiết, thì dẫu ông không dám nói ra, trong bụng chỉ coi là đồ ương gàn, không đủ mà đếm xỉa. Nhưng người hơn ông đâu có nhiều, ra đường chỉ rặt là kẻ ăn làm đầu tắt mặt tối, thành thử ông hay có cái bộ khinh khỉnh, coi người bằng nửa con mắt. Tuy vậy ông Cửu không phải chỉ giao du với các nhà tư bản thôi, vì ông đã giàu rồi lại muốn sang, nên hễ gặp ông tai to mặt lớn nào là ông bắt quàng làm thân ngay. Sau hai bận đi Huế, người ta đã thấy trước ngực ông lủng lẳng chiếc bài ngà hàn lâm viện đãi chiếu. Về việc đó ông cứ phàn nàn mãi: “Nhà nước quá yêu mà ân tứ cho thế nầy, chớ thật tôi nhờ trời đủ bát ăn, có dám màng đâu danh vọng “. Ông dẫu nói vậy, vả lại vừa làm lễ tam sanh ăn ngũ tuần, nhưng vạn bất đắc dĩ phải chìu lòng anh em trong xóm mạc, ăn khao hết ba bò tám heo, rước đám hát đằng đẵng nửa tháng trời. Lắm người đã khen là ông tính việc gì cũng chu đáo lắm. Nhưng ông Cửu lại tiếc mình có tài năng nên ông còn muốn ra làm hội đồng thành phố. Muốn cho có vây cánh, ông bèn chơi thân với ông tham Hồng là người có thể giúp cho ông nhiều về việc ấy. Sắp đặt đã xong đâu đấy, ông chỉ còn phiền cái tên ông nó không có giọng quý phái chút nào, ông bèn nghĩ đổi ngay nó ra là Bạch. Nhưng dẫu danh thiếp ông gởi đi khắp thành phố, nhan nhản đề cái tên Cửu Bạch, thiên hạ cũng cứ quen mồm gọi ông là ông Cửu Đùm vậy. Ông biết thế, không vui lòng chút nào…”.

Bên cạnh một Nga thuỳ mị, dịu dàng, chung tình nhưng cũng biết vượt lên sự bất hạnh trong mối tình đầu để sống, xây dựng hạnh phúc một cách chính đáng, là hình tượng cô gái tân thời, nữ sinh Đồng Khánh tên Trà, con gái ông Cửu Bạch. Thật ra, Trà cũng không có gì đáng ghét. Cử chỉ giao thiệp của cô khá bình đẳng, tự nhiên, nhưng chưa đến mức lố lăng. Cách ăn mặc, trang sức ở Trà cũng kín đáo, trang nhã.

3. Sự phản đối khéo léo chế độ thực dân: Chút lầm lạc hiển ngôn và sự phản biện ẩn ngôn xuyên suốt

“Diễm Dương Trang” rõ ràng là tiểu thuyết về tình yêu đương và hôn nhân. Tuy nhiên, nếu chưa kịp hiểu ẩn ý của tác giả, người đọc hẳn sẽ cảm thấy bất bình thật sự, thậm chí muốn ném cả cuốn sách gần hai trăm trang này vào lửa, thiêu huỷ nó đi, khi đọc phải một đoạn ngắn khoảng dăm bảy câu văn:

“Trang còn đương loay hoay nghĩ thế thì đã đến nơi nghĩa địa của mấy người lính thủy Tây Ban Nha. Đứng trước các ngôi mộ ấy, chàng bỗng hồi tưởng lại cái khí tượng hào hùng của những kẻ xông pha trên mặt bể hiểm nghèo, những kẻ đó có lẽ coi nhẹ cảnh gia đình êm ấm. Cách sinh hoạt éo le của hạng người ấy, trên sóng, đầu gió, có một cái khí vị ngây ngất, phi thường… Trang bấy giờ nhận thấy cái ái tình nó nhỏ nhen quá. Ở đời còn thiếu chi sự nghiệp lừng lẫy đủ kích thích chàng? Hồi nhỏ đi học, chàng có nghĩ rằng đến lúc trưởng thành sẽ để tiêu trầm nghị lực trong chốn tình trường chăng?”.

Trang tỏ ra lầm lạc, trong khi anh ta thừa vốn liếng tiếng Pháp để có thể đọc, hiểu được đó chính là nghĩa trang của những tên thực dân Tây Ban Nha và Pháp, trong cuộc đánh chiếm mở đầu quá trình xâm lược thực sự của chúng trên đất nước ta, vào các năm 1858-1860, tại Đà Nẵng. Tại sao Trang lại ca ngợi chúng với những tính từ kêu vang đến thế? Thậm chí, chúng ta có thể kinh ngạc tự hỏi, tại sao thi sĩ Phan Văn Dật lại đặt ý nghĩ lầm lạc đến mức như thế vào chuỗi suy tư, tâm trạng trăn trở chân thành, thầm kín của nhân vật mà ông không giấu lòng yêu mến?

Tôi đã đọc, với sự sửng sốt, khi gặp phải những dòng chữ ấy, và cũng toan ném hoặc xé cuốn sách đi. Thế rồi, tự nhủ phải nhẫn nại, xem sao. Cuối cùng, tôi bình tĩnh đọc tiếp, và thấy rằng, đoạn văn trên quả là quá lạc lõng trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết, như thể ai đó ác ý thêm thắt vào.

Ai cũng biết, tuy dưới ách thực dân Pháp cai trị và thế lực giáo quyền của các cố đạo Tây Ban Nha còn bao trùm, nhất là ở thời điểm tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” ra đời, các thông tin về lịch sử xâm lược, thống trị nước ta đã dần dà hé mở. Ai cũng biết, từ năm 1921, cuốn “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim đã được ấn hành. Thế nhưng, nhân vật Trang của thi sĩ, nhà văn Phan Văn Dật lại lầm lạc đến mức không thể nào chấp nhận được!

Và, thật ra, ai cũng biết tác giả có quyền để cho nhân vật của mình ngu ngơ, mù mờ về kiến thức lịch sử, trong một thoáng ý nghĩ thôi, để rồi tác giả phản biện lại chút lầm lạc ấy bằng cả cuốn tiểu thuyết. Sự phản biện ấy lại nằm ở tầm sâu của bản chất nhân vật. Trang không thích, không muốn ở trong guồng máy nhà nước thực dân Pháp. Anh ta cực chẳng đã phải chịu làm việc tại Toà Công sứ Pháp ở một tỉnh trên cao nguyên để cứu lấy gia đình trước bờ vực nghèo đói, thất học, và nhanh chóng xin thôi việc, lao vào công việc lãnh hành (thầu khoán), một nghề tự do bên ngoài guồng máy của Pháp. Trong thâm sâu của bản chất Trang, đâu phải chỉ vì bị phụ tình hay chút tự do của người ôm mộng làm thi sĩ, mà anh đi đến quyết định ấy. Và chúng ta còn thấy, Trang rất mực yêu quý, kính trọng gia đình của cụ Nghè Thuyên, một nhà nho đỗ đại khoa, không muốn bị vấy bẩn cốt cách mình, tuy cũng chỉ là một người yêu nước thầm kín, bất khả kháng, ngậm ngùi xuôi tay, lánh đục về trong, trước thời cuộc: “Trang bấy giờ mới biết rằng ông Nghè Thuyên xưa, dù là một nhà tấn sĩ xuất thân, nhưng vì tánh tình phóng khoáng, quả hợp, lại gặp thời buổi khó khăn, sợ liên lụy đến mình, nên chẳng chịu ra làm quan; lại nhờ nhà có tiền của nên mới trưng sở đất ấy mà lập nghiệp. Trước, chỗ ở còn là cái nhà rường, ông Nghè đặt tên cho nó là “Diễm Dương Trang”. Đến sau ông qua đời rồi, Oánh làm ăn mỗi ngày mỗi phát đạt thêm lên, mới bỏ cái nhà ấy đi mà cất lại sở lầu mới bây giờ, nhưng cũng vẫn dùng cái tên cũ”. Con trai ông, Oánh, cũng thế: “Oánh tuy là dòng dõi nhà nho, nhưng chẳng chịu dấn thân vào đường sĩ hoạn”.

Nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng, chính tính khuynh hướng của toàn bộ cuốn tiểu thuyết mới thể hiện đúng tư tưởng của tác giả, như F. Engels đã nói, thì rõ ràng cả cuốn sách gần hai trăm trang có tên là “Diễm Dương Trang” này có sứ mệnh chính là mang chứa thông điệp bất hợp tác với chế độ thực dân Pháp, thể hiện thái độ, khát vọng lánh đục về trong của chính thi sĩ, nhà văn Phan Văn Dật.

Nói cho rốt ráo, riêng ở nhân vật Trang, có thể anh ta thực sự sai sót về nhận thức lịch sử, cụ thể về nghĩa trang Tây Ban Nha – Pháp ở Sơn Trà, nhưng bản chất anh ta lại đúng đắn đến mức đáng quý trọng. Nhân vật Trang, thậm chí, nếu quá khắt khe, ta cũng có thể quy anh ta vào loại người mang tâm lí, nhận thức lưỡng phân. Đó là loại tâm lí, nhận thức của những người sống dưới chế độ thực dân Pháp cai trị, mặc dù nhận thức có lệch lạc, mù mờ ở điểm nào đó, nhưng trên bình diện tổng thể, vẫn nhận thức được thực trạng mất nước của dân tộc mình, và trong thâm tâm, tận chiều sâu bản chất vẫn không bao giờ chấp nhận làm tay sai, nô lệ cho chúng.

Đó cũng chính là sự khôn khéo kín đáo của Phan Văn Dật trên văn đàn công khai.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh một lần nữa: Đó là chút lầm lạc hiển ngôn (trên văn bản tiểu thuyết, đặt trong chuỗi suy nghĩ của nhân vật), nhưng cả cuốn tiểu thuyết là sự phản biện ẩn ngôn xuyên suốt (tính khuynh hướng của trọn vẹn tác phẩm), thể hiện thái độ, khát vọng bất hợp tác, lánh đục về trong của nhân vật và cũng của tác giả, cho dù ở dưới guồng máy cai trị của thực dân Pháp.

Và có lẽ để hiểu thêm, cảm thông thêm với nhân vật như Oánh, Trang và cả tác giả Phan Văn Dật, thiết tưởng cũng cần bàn thêm: Nếu đất nước độc lập, ý muốn tiến thủ trên quan trường, để tích cực góp phần xây dựng, bảo vệ đất nước, không phải là không chính đáng. Vấn đề ở tiểu thuyết này là thực trạng đất nước còn trong vòng nô lệ, dưới ách thực dân. Trong bối cảnh bất khả kháng, thái độ, khát vọng bất hợp tác, lánh đục về trong mà “Diễm Dương Trang” chuyển tải, vẫn rất đáng trân trọng.

Nhìn chung, “Diễm Dương Trang” tuy là cuốn tiểu thuyết đầu tay và cũng là duy nhất của nhà thơ Phan Văn Dật, nhưng về kết cấu, cốt truyện và các chi tiết được sử dụng đã khá già dặn. Những tình huống được xếp đặt khéo léo, tự nhiên như thể tất yếu phải xảy ra như thế. Qua đó, nội tâm nhân vật, đặc biệt là các diễn biến tâm lí, được bộc lộ rõ nét. Về tính cách nhân vật, ông đã chú trọng khắc hoạ để các nhân vật nổi rõ như những con người thật, có cá tính, không chung chung, mờ nhạt.

Trong tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”, tác giả có chủ ý sử dụng một số phương ngữ Huế – Quảng Trị (chưa kể một ít từ cổ, bấy giờ còn thông dụng…). Điều đó khiến cho tác phẩm có thể hơi vướng chỗ này, chỗ nọ, đối với một số người đọc chưa quen với những từ địa phương vùng đất này. Tuy vậy, chính những từ ngữ mang màu sắc địa phương khiến tiểu thuyết “Diễm Dương Trang” tạo được ấn tượng nhất thể giữa bối cảnh địa lí, khung cảnh xã hội địa phương và ngôn từ mang bản sắc địa phương ấy. Đó không phải là tiểu thuyết viết về những người Bắc Bộ hay Nam Bộ sống ở Huế, mặc dù Huế vốn là kinh đô (vẫn còn là kinh đô ở thời điểm đó), nên đất Huế không thiếu người từ khắp toàn quốc đến sống, làm việc và chọn Huế làm quê hương! Dĩ nhiên, như bất kì tác giả sinh trưởng ở bất cứ vùng đất nào trên đất nước, Phan Văn Dật cũng đã tiết chế, giảm đến mức vừa đủ liều lượng từ ngữ địa phương, để vừa giữ màu sắc địa phương, vừa hoà nhập vào ngôn ngữ phổ thông với tính nhất thống toàn quốc.

Vượt lên kĩ thuật, nghệ thuật vẫn là sự độc đáo, khá sâu sắc khi khai thác một khía cạnh đặc biệt trong tình cảm yêu đương và thông điệp của tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”.

Với bài viết này, tôi đã mạnh dạn đề xuất một cách cảm thụ tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”, với hi vọng nó sẽ được tái bản, không tiếp tục bị chìm vào quên lãng. Ít ra, trong những tiết học về văn học địa phương, các buổi sinh hoạt ngoại khoá tại quê nhà Quảng Trị, tiểu thuyết của thi sĩ Phan Văn Dật, từng chói sáng trên văn đàn cả nước cách đây 76 năm (1935), sẽ được các nhà giáo bình giảng, học sinh thuyết trình, thảo luận (*). Trong những lúc đó, xin đừng quên rằng Phan Văn Dật đã dành một quãng đời khá dài để nghiên cứu Hán văn và lịch sử, đạt được một mức độ uy tín nhất định trong giới học giả…

TXA.
09:20 – 20:47, 14-12 HB11
& chiều 15-12 HB11
_________________________

(*) Cụ thể hơn, ở tiểu thuyết “Diễm Dương Trang”, có thể đoạn lầm lạc trong suy nghĩ của nhân vật Trang sẽ phải được ghi chú cải chính, theo yêu cầu khoa học, để bảo đảm thông tin đã được cải chính, đồng thời bảo đảm tính toàn vẹn của văn bản – tư liệu.

Thông tin về bản gốc và sách tham khảo:
1) Phan Văn Dật, “Diễm Dương Trang”, Trung Bắc tân văn, Hà Nội – 1935. Bản gốc có ở Thư viện quốc gia tại Hà Nội (xem trang thông tin điện tử).
2) Nhiều tác giả, “Từ điển văn học”, bộ mới, Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 1399-1401 (mục từ “Phan Văn Dật” do Phạm Phú Phong viết).

Đã đăng:

http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/3737-doc-tieu-thuyet-diem-duong-trang-cua-phan-van-dat.html

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

Thử nghĩ lại về văn chương, thân phận nhà văn chương…

Posted by Trần Xuân An trên 12.12.2011

hidden hit counter

Trần Xuân An

THỬ NGHĨ LẠI VỀ VĂN CHƯƠNG,
THÂN PHẬN CỦA NHÀ VĂN CHƯƠNG…

(06 & 07-12 HB11)

Đang gửi đăng trên báo chí


Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820​) tại
Nghi Xuân, Hà Tĩnh
Nguồn ảnh minh họa: Web Du lich Xu Nghe

THỬ NGHĨ LẠI VỀ VĂN CHƯƠNG,
THÂN PHẬN CỦA NHÀ VĂN CHƯƠNG…

Trần Xuân An

Đây chỉ là bài viết thử nghĩ lại một vấn đề cơ bản và sơ đẳng về văn chương, có đôi chút chú trọng đến quyền trải nghiệm cuộc sống, đặc biệt là thân phận các nhà văn chương…

Cao Bá Quát đã đã bày tỏ ý kiến của mình về kiến văn sách vở, khi viết bài tựa nhưng đặt ở cuối thi tập của Miên Thẩm: “Ví như học viết, nếu cứ theo lề lối không biết biến hoá, thì tuy có hệt được cái mặt ngoài của lối chữ Lan Đình cũng chẳng ai thèm kể vào đâu. Tô Đông Pha bàn về cách viết, có nói ‘Không học là hơn’. Ai hiểu được ý ấy, thì có thể cùng nói chuyện về việc làm thơ được” (1). Quả vậy, viết thư pháp cũng như sáng tác, không thể bắt chước một cách máy móc mà phải sáng tạo mới. Muốn sáng tạo mới, phải có nội lực. Những gì làm nên nội lực ấy?

Về vốn sống, Lục Du, một nhà thơ cổ Trung Hoa cũng đã viết: “Muốn làm thơ hay, phải học ở ngoài thơ”. Đầu thế kỉ XIX, dưới triều vua Minh Mạng, Mộng Liên Đường chủ nhân khi đề tựa cho Truyện Kiều, cũng cho rằng chính sự từng trải trong cuộc sống và chiêm nghiệm cuộc sống của Nguyễn Du đã tạo nên bề rộng, chiều sâu cho câu chữ: “Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến ngàn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy” (2)… Chính Nguyễn Du cũng viết đầu Truyện Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu / Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ở bài “Hoàng Mai kiều vãn diếu” trong “Thanh Hiên thi tập”, ông viết: “Đại địa văn chương tuỳ xứ kiến” (Trên mặt đất rộng, nơi nào cũng thấy văn chương) (3).

Cuộc sống xã hội bao giờ cũng đa dạng, phong phú: chiến trường xương máu và công lao, công trường ràn rụa mồ hôi và thành quả, cánh đồng ngập bùn và kì thu hoạch, thành phố phồn hoa, bụi bặm và năng động… Thiên nhiên chưa đựng vô vàn vẻ đẹp, sự bí ẩn. Cuộc sống nội tâm của mỗi con người, của bản thân mỗi nhà văn chương là cả một thế giới sâu thẳm, vi tế, khôn cùng, vô tận. Karl Marx, nhà khoa học, vốn rất thích một câu châm ngôn: “Những gì thuộc về con người đều không xa lạ với tôi”. Nhà văn chương lại còn cần hơn thế. Chính sự tiếp xúc, cọ xát với thực tế sẽ giúp nâng cao, đào sâu, kiểm nghiệm tri thức và nẩy sinh cảm xúc, ghi nhận ấn tượng… Qua đó, nhà văn chương càng thấu hiểu con người của chính mình hơn. Cảm xúc, trí nhớ thị giác (quan sát), chiêm nghiệm, để thấu hiểu đất trời, thấu hiểu lòng người, thấu hiểu đời và thấu hiểu chính mình, đối với nhà văn chương là cực kì quan trọng. Chỉ nói riêng về vị giác, Picasso không chỉ nhìn quả chuối để vẽ tranh tĩnh vật về quả chuối, mà ông còn bóc vỏ, nhấm nháp vị chuối. Trong văn chương cũng cần phải trải nghiệm như thế. Vì vậy, ý thức dấn thân vào cuộc sống thật, trải nghiệm bằng tất cả con người mình, nâng cao cảm quan nhạy bén, nhằm tích luỹ vốn sống, là điều không thể thiếu. Nhà văn chương được số phận nuông chìu, lại rất cần phải dấn thân. Nhà văn chương do số phận đẩy đưa, bị ném vào tận đáy cuộc sống, họ cũng không thể thiếu ý thức tích luỹ vốn sống. Trải nghiệm cuộc sống thực tế là yêu cầu hàng đầu và là quyền của nhà văn chương.

Về quyền trải nghiệm cuộc sống ấy, tôi có viết một bài thơ, khi nhớ một bạn văn. Trong đó có những câu:

quyền trải nghiệm của nhà văn được quy định
bởi cái tâm
mọi người tin, bạn không thể thử tự sát lương tri
và nhân cách
thuốc độc, bạn không thể thử uống chơi, và lồng
ngực, bạn không thể thử tắt câm tiếng mạch…

Quyền trải nghiệm ấy rất rộng, và dĩ nhiên, cũng có giới hạn. Cái tâm của nhà văn chương không thể không sáng.

Như vậy, vốn tri thức uyên bác, vốn trải nghiệm cuộc sống sâu sắc, phong phú, cái tâm lương thiện với lẽ sống chân chính là ba yếu tố căn bản, nhưng không có tài năng vẫn không thể sáng tác văn chương. Ngược lại, có năng khiếu nhưng thiếu ba yêu tố kia, năng khiếu cũng không thể thành tài năng, cũng không thể sáng tác lâu dài suốt cả cuộc đời, không thể làm nên tầm vóc của một nhà văn chương đích thực. Thiếu tri thức sẽ thiếu tầm trí tuệ. Thiếu vốn sống tác phẩm sẽ khô khan, sáo rỗng. Thiếu cái tâm trong sáng và lẽ sống chân chính, tác phẩm chỉ suy đồi, truỵ lạc. Thiếu tài năng về nghệ thuật ngôn từ, không thể có tác phẩm văn chương làm rung động người đọc về mặt thẩm mĩ.

Có vốn sống đã được tri thức soi sáng mới có thể đạt được tính chân thực, thể hiện sự hiểu đời, hiểu người, hiểu mình và hiểu đất trời. Có cái tâm trong sáng với lẽ sống cao đẹp mới có thể đạt được tính thiện. Có tài năng mới có thể đạt được tính thẩm mĩ văn chương. Điều cần nhấn mạnh, đó là phong cách nghệ thuật – tư tưởng. Một nhà văn chương có tầm vóc phải đồng thời là một nhà tư tưởng. Tuy nhiên, đây không phải là nhà triết học mà là nhà văn chương có tư tưởng, triết lí độc sáng với một phong cách văn chương độc đáo.

Nhà văn chương còn thể hiện trong tác phẩm của mình những góc nhìn, tâm tư riêng biệt từ chính thân phận, thành phần xã hội của bản thân mình. Có thể trăm sông đều đổ ra một biển lớn, nhưng mỗi dòng sông đều có nét riêng. Chỉ nói riêng về văn chương chính thống dưới triều Nguyễn, ai cũng biết Nguyễn Du đối nghịch với Miên Thẩm về nguồn gốc xuất thân (4). Chế Lan Viên, Xuân Diệu đến với Cách mạng khác với Tố Hữu, và ngay Chế Lan Viên cũng khác nguồn với Xuân Diệu; Hải Bằng lại càng khác nguồn với Phùng Quán… Sau Ngày Thống nhất đất nước, nhiều nhà văn chương hiện thời cũng xuất thân từ nhiều lí lịch khác nhau. Cái nhìn về lí lịch gia đình, gia tộc thường là do xã hội, cơ chế cầm quyền tác động tích cực hay tiêu cực vào nhà văn chương. Chắc hẳn lí lịch gia đình, gia thế sẽ không là vấn đề gì cả nếu một nhà văn chương không hề biết đến lí lịch ở dạng ấy của mình. Nhưng không phải chỉ xem xét vấn đề trên cơ sở lí lịch và cách nhìn về lí lịch như thế, mà còn phải lưu tâm đến thể chất, tâm chất, khí chất và sức khoẻ cá nhân…

Tất cả những yếu tố trên đều góp phần hình thành nên số phận các nhà văn chương và in dấu trong tác phẩm của họ.

Dẫu thế nào đi nữa, khi tác phẩm được nhà văn chương đăng lên báo, xuất bản, thì tác phẩm ấy đã đi vào đời và phục vụ xã hội, kể cả khi họ viết hồi kí, viết tự truyện hay làm thơ về cái tôi cá nhân với những tình cảm riêng tư…

Trong một dịp gần đây, tôi gặp phải một yêu cầu khá bất chợt về quan niệm văn chương. Đang lúc nghĩ về cái tâm và quyền trải nghiệm thực tế cuộc sống của người cầm bút, theo quan niệm từ thuở học trò, tôi trả lời:

“Nói riêng về lĩnh vực sáng tác: Nhà văn chương chuyên về lĩnh vực sáng tác, từ khi sáng tác trở thành một loại hình lao động chuyên nghiệp và trọn đời cho đến nay, không phải là người giam mình trong sách vở, kinh điển. Nói như vậy, với hàm ý rằng: Ngoài tri thức kim cổ được truyền thụ và tự học, chúng ta cần phải trải nghiệm, tích lũy vốn sống sinh động, cụ thể, trực tiếp, để thấu hiểu mình và thấu hiểu người, thấu hiểu đời, thấu hiểu đất trời. Nhưng quyền trải nghiệm của nhà văn chương được quy định bởi cái tâm. Vốn sống và cái tâm lương thiện với lẽ sống chân chính, cùng với tài năng, góp phần làm nên cái tầm vóc văn chương của mỗi nhà cầm bút. Văn chương từ ngàn xưa cho đến muôn đời sau vẫn không thể thiếu một trong ba thành tố cổ điển (chuẩn mực), đó là chân, thiện, mĩ. Và dĩ nhiên, phong cách, cá tính nghệ thuật – tư tưởng cùng với sự riêng biệt về thân phận, thành phần xã hội làm nên nét đặc sắc. Tôi muốn nói gọn hơn: Văn chương phải THẬT, phải TỐT, phải ĐẸP và phải ĐẶC SẮC.

Văn chương khi đã cho lưu hành giữa đời là VÌ ĐỜI, trong đó có bản thân mình; thậm chí viết về cái tôi thì cái tôi ấy cũng là hình tượng trữ tình, và đăng báo, xuất bản tác phẩm chứa đựng hình tượng trữ tình của cái tôi cũng vì đời”.

Ngoài sáng tác thơ, tiểu thuyết, tôi còn viết bình luận, phê bình văn chương và nghiên cứu sử học, nhưng đây chỉ giới hạn trong lĩnh vực sáng tác văn chương. Và xin thưa thêm một lần nữa, đây cũng chỉ là bài viết thử nghĩ lại một vấn đề cơ bản và sơ đẳng…

TXA.
cuối tháng 11 – 11-12 HB11 (2011)
________________________

(1) Nhiều dịch giả, “Thơ Cao Bá Quát”, Nxb. Văn Học, bản in lần thứ hai, 1976, tr. 354.

(2) Mộng Liên Đường chủ nhân (có người cho rằng tên thật là Nguyễn Đăng Tuyển, tác giả “Đào hoa mộng kí”), Bài tựa Truyện Kiều (1820), bản dịch Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim, Vĩnh Hưng Long thư quán xuất bản, 1925.

(3) Mai Quốc Liên và nhiều dịch giả, “Nguyễn Du toàn tập”, tập 1, Nxb. Văn Học, & TT. Nghiên cứu quốc học, 1996, tr. 70-71.

(4) Xem lí lịch – hành trạng Nguyễn Du: Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam chính biên liệt truyện”, bản dịch VSH., tập 3, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 335-336; Nguyễn Thạch Giang (khảo đính, chú thích) & Hà Huy Giáp (giới thiệu), “Truyện Kiều”, Nxb. ĐH. & THCN., 1976, tr. 495-509; Mai Quốc Liên và nhiều dịch giả, sđd., tr. 589-592. Thân phụ của ông là Nguyễn Nghiễm, tể tướng thời Lê – Trịnh, từng chỉ huy đánh chúa Nguyễn, kéo quân vào tận Quảng Nam. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng làm tham tụng (thủ tướng) thời Lê – Trịnh. Anh cùng cha cùng mẹ là Nguyễn Nễ, làm quan cho cả Lê – Trịnh, Tây Sơn và nhà Nguyễn… Tuy nhiên, ông vẫn được Gia Long trọng dụng; đặc biệt, Minh Mệnh và Tự Đức đều ban sắc dụ cho tái bản lại Truyện Kiều…

Đã đăng:
http://trannhuong.com/news_detail/12019/THỬ-NGHĨ-LẠI-VỀ-VĂN-CHƯƠNG-THÂN-PHẬN-CỦA-NHÀ-VĂN-CHƯƠNG

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: | Leave a Comment »

LỊCH SỬ VÀ LÀNG QUÊ TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ HỒNG

Posted by Trần Xuân An trên 08.12.2011

hidden hit counter

Trần Xuân An

BÓNG DÁNG LỊCH SỬ VÀ LÀNG QUÊ TRONG MỘT ÍT TRUYỆN NGẮN VÕ HỒNG

(06 & 07-12 HB11)

Đang gửi đăng trên báo chí

BÓNG DÁNG LỊCH SỬ VÀ LÀNG QUÊ
TRONG MỘT ÍT TRUYỆN NGẮN VÕ HỒNG

Trần Xuân An

A.

Có một nhà văn, hầu như toàn bộ tác phẩm được ông viết ra, suốt cả cuộc đời trường thọ của mình, đều gắn bó với Phú Yên – quê hương bản quán – và một vài tỉnh lân cận. Đó là nhà văn Võ Hồng. Có một nhà văn, tác phẩm của ông khiến cho vài ba thế hệ người đọc đều cảm mến, không những cảm mến về giọng văn mà cả cách nhìn đôn hậu, thậm chí hình như không muốn mích lòng ai của tác giả, đồng thời cảm mến phần lớn những nhân vật ông thương quý, vốn có nếp sống chừng mực hoặc chân chất; và lạ thay, cả vài ba thế hệ người đọc dường như sẵn lòng bỏ qua những hạn chế về chính kiến, tư tưởng mà trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, ông chưa vượt qua được hay không muốn vượt qua. Đó cũng là nhà văn Võ Hồng.

Với hơn mười tập truyện, trên năm tiểu thuyết và vài tập thơ, có thể nói sự nghiệp văn chương của Võ Hồng như một trang trại hoa lá khá rộng. Tuy vậy, về truyện ngắn, truyện vừa, có thể ông đã thành thật chỉ ra cho người đọc mươi gốc bông, gốc cây ông tâm đắc nhất. Thêm vào đó, một số người thưởng ngoạn lại bình chọn vài ba gốc khác.

Và cũng như tác phẩm của những nhà văn có nội lực, mặc dù chỉ hơn mười truyện ngắn, truyện vừa cần được lưu tâm ngẫm nghĩ, người đọc cũng có thể có những hướng tiếp cận với các thẩm bình khác nhau.

B.

I. Trong những truyện được chính nhà văn xem là đáng chú ý

Thông thường, tác giả các tập truyện nếu không chọn một tên sách chung cho cả tập, đều chọn nhan đề của truyện nào đó mình thích nhất trong cả tập, để đặt làm tên sách. Tôi cũng nghĩ, nhà văn Võ Hồng hẳn không thuộc vào số tác giả chịu bị chi phối bởi thị hiếu của thị trường sách báo, nên không dễ gì các nhà xuất bản có thể can dự vào việc đặt tên sách, cụ thể như đặt tên cho mỗi tập truyện bằng tên của một truyện ngắn độc giả thích chứ không phải nhà văn thích. Khởi đi từ suy luận đó, tôi thật sự chú ý đến tám truyện ngắn và một truyện vừa: 1) Hoài cố nhân (1959); 2) Lá vẫn xanh (1962); 3) Vết hằn năm tháng (1965); 4) Con suối mùa xuân (1966); 5) Khoảng mát (1966); 6) Người về đầu non (truyện vừa, 1968); 7) Bên kia đường (1968); 8 ) Những giọt đắng (1969); 9) Trầm mặc cây rừng (1971)… Đây lại là những truyện được chọn in trong “Tuyển tập Võ Hồng” (2003), do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và nhà xuất bản Văn Nghệ TP.HCM. ấn hành.

“Hoài cố nhân” là tập truyện đầu tay được xuất bản của nhà văn, sau hai mươi năm cầm bút, kể từ 1939. Trong tập truyện này, truyện ngắn “Hoài cố nhân” được tác giả viết khá kĩ lưỡng và công phu, kéo dài đến khoảng 37 trang sách. Bối cảnh chủ yếu là những năm trước khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra và một thời gian ngắn khi cả nước đã bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Trước hết, đó là chuyện tình yêu đương giữa hai người học sinh trung học tên Lý và tên Xuân. Nhưng hầu như “Hoài cố nhân” là tiểu truyện về một con người, vốn là bạn cùng quê, bạn học thuở ấu thời tại tỉnh nhà cho đến khi cùng học với nhau tại Hà Nội… Chính nhân vật kể chuyện, xưng tôi, đã nói rõ, đó không phải chỉ là chàng trai tên Lý nhớ Xuân, cô bạn học, là người yêu, trải qua một thời gian trở thành “cố nhân”, rồi về sau là vợ của anh ta, mà còn là tác giả nhớ đến cả hai người bạn cũ, cả Xuân lẫn Lý, nhưng chủ yếu vẫn là Lý. Dõi theo cuộc đời từ tấm bé cho đến khi mất của Lý, nhà văn Võ Hồng miêu tả lại cảnh học trò trường làng, trường phủ tại Phú Yên và cảnh trọ học tại Hà Nội cùng những biến động lịch sử, trong đó nhân vật Lý đã vì ảo tưởng về chủ nghĩa Đại Đông Á của Nhật, y trở thành tay sai của phát-xít. Nhân vật Lý ảo tưởng đến mức độ bỏ học, quyết chấm dứt cả mối tình si, thắm thiết với Xuân để dấn thân vào hàng ngũ hiến binh Nhật! Đến khi vỡ mộng, Lý cay đắng nói: “Người Nhật họ không thật tình đối với ta”! (sđd., tr. 34). Lý về quê cưới Xuân, nhưng vẫn còn đứng trong hàng ngũ phát-xít Nhật. Cái gọi là đỉnh cao của Lý: “Vụt đến ngày Nhật đảo chính, Lý hầu như thành nhân vật trong một thiên anh hùng ca cho cả vùng đó” (tr. 37). Thế rồi, Nhật đầu hàng. Sau Cách mạng Tháng Tám nổ ra, cuộc kháng chiến bắt đầu được vài năm, Lý lại tham gia cách mạng với “một chức nhỏ phụ giúp ở Ty Cứu tế xã hội” (tr. 39). Lý bảo: “Cứu giúp những người khổ, đó là cái việc rõ ràng khỏi phải cân nhắc lí luận lôi thôi…”. Lý tiếc là mình không phải một y sĩ, vì theo y, y sĩ chỉ có kẻ thù là bệnh tật, “ông ta cứ cắt, cứ mổ, cứ tiêm. Lương tâm để ông ngủ yên”. Lý nói như vậy, để khẳng định: “Lương tâm, tôi có” (tr. 39). Cuối cùng, năm 1949, Lý chết do ngã bệnh trong một chuyến đi công tác thăm trại tế bần, với tư cách một viên chức của Chính phủ Kháng chiến. Còn Xuân? “Lấy chồng rồi. Lấy chồng năm 1953 rồi” (tr. 44).

Truyện ngắn “Hoài cố nhân” của Võ Hồng lưu giữ được những chi tiết về hiện thực làng thôn Phú Yên, thành phố Hà Nội cùng những những tâm tư, tình cảm và suy nghĩ, của một vài bộ phận xã hội bấy giờ, và chừng như Võ Hồng còn muốn biện minh, giãi bày trước người đọc về ảo tưởng, lầm lạc của một số người Việt Nam có học, của cả một số nông dân ở các làng thôn nước ta, khi phát-xít Nhật chiếm đóng, với chiêu bài mị trá “Đại Đông Á” của chúng.

Đề tài thời Nhật chiếm đóng lại được nhắc đến trong truyện “Vết hằn năm tháng” , mặc dù chủ yếu truyện này thể hiện diễn biến tâm trạng bâng quơ của các nhà giáo làm giám khảo trong một kì thi tú tài. Trong những liên tưởng, hồi ức do những cớ sự ngẫu nhiên của nhân vật nhà giáo (nhân vật kể chuyện), có một mảng nhớ lại thời phát-xít Nhật chiếm đóng qua số phận của một phụ huynh của một thí sinh. Nhà giáo tình cờ đọc được một tấm phiếu thí sinh khi đồng nghiệp lập danh sách đỗ, trong đó, cha mẹ của thí sinh ấy vốn là bạn cùng quê của nhà giáo! Và tuy chỉ là dân quê, là tuyên truyền viên ở làng cho Nhật, nhưng cha của thí sinh ấy cũng tương tự như số phận của nhân vật Lý trong “Hoài cố nhân”. Nhà văn kể tiếp qua nhân vật xưng tôi: “Tiếp tới, Nhật Bản đầu hàng. Cách mạng Tháng Tám nổ. Cách mạng nổi lên, anh đương nhiên bị coi là người của chế độ cũ. Danh hiệu này là một vinh dự quá to đối với anh. Tuy vậy, nó làm cho anh lo sợ mất ăn mất ngủ, vì vào những ngày đầu Cách mạng, ai nấy đều vũ trang dao găm và lựu đạn. Sau đó, theo chính sách tận dụng khả năng dân chúng, không phí phạm nhân tài, vật lực, anh được sung vào làm thủ quỹ cho Hội giúp binh sĩ bị nạn” (tr. 1179). Duy có điều, vì phiếu thí sinh chỉ gồm những thông tin tối thiểu, vắn tắt, nên chỉ một chữ c trong ngoặc đơn, có nghĩa là chết, không cho nhân vật nhà giáo hiểu được lí do dẫn đến cái chết của người cha thí sinh. Kí ức của nhà giáo hoàn toàn không có đoạn kết này… Thật ra, đây chỉ là một liên tưởng nhỏ, thoáng qua nhưng đậm nét, giữa một chuỗi tâm trạng tản mạn cùng những sinh hoạt tạm bợ trong nửa tháng chấm thi của một viên giáo sư trung học.

Và đây là ở truyện ngắn khác: “Trong suốt mười năm tham gia kháng chiến, tôi đã lang thang đi khắp mọi miền của tỉnh Phú Yên, in dấu chân ở gần khắp mọi xã thôn… […] … Năn đó tôi đang làm việc ở Phân ban Cực nam thì có chủ trương biên chế tổ chức mới. Tôi bị để ra ngoài biên chế. Trong khi chờ học một nghề mới để làm kế sinh nhai, tôi được một gia đình học sinh cũ của tôi mời về tá túc” (tr. 1067). Nhân vật “tôi”, người kể chuyện trong truyện ngắn “Trầm mặc cây rừng”, chỉ nói thoáng qua như vậy để đi vào một chuyện tình cảm trong tình cảnh vợ mất sớm. Thì ra, lòng vẫn còn hoài nhớ cô gái quê tên Thịnh, hồi nhân vật “tôi” còn tá túc ở làng cô, trong bối cảnh sau khi bị đẩy ra khỏi biên chế của một cơ quan Việt Minh kháng chiến.

Phải nói rằng, “Trầm mặc cây rừng” là một truyện ngắn khá cảm động, chú trọng phân tích tâm lí nhân vật. Đó là một loại tâm lí của người dù đã ra thành thị sinh sống, phong lưu về vật chất, nhưng vẫn khôn nguôi thương nhớ, biết ơn những người đã cưu mang, thương mến mình khi mình khốn khó, không nơi nương tựa, trong đó có cô gái Thịnh. Tuy thế, phải chăng đó cũng là tâm lí của một người cảm thấy được an ủi khi người mình có thể yêu, lấy làm vợ kế là một người mặc cảm tự ti trước mình và phải chịu ơn mình? Nếu không thế, thì sao nhân vật “tôi” lại nhấm nháp nhiều lần điệu nhạc và đôi câu ca từ tầm thường nhưng nhân vật cho là phù hợp với cảnh huống: “Em biết thân em phận gái nghèo hèn…”?

Để phản ánh hiện thực xã hội thời mình sống, nhà văn Võ Hồng còn viết những truyện ngắn có bối cảnh là Miền Nam trong những năm 60 – 70 / XX. “Khoảng mát” là một truyện như thế. Truyện kể về một người trong những năm tháng tản cư ra thành thị, phải làm công việc của một người thu tiền rác mỗi tháng ở một xóm dân nghèo. Trong một lần, anh gặp lại người yêu cũ, nay đã là vợ của một người Mỹ. Hai người ở tình huống bất đắc dĩ phải nhận ra nhau, cùng ngồi uống nước với nhau, và không thể không nhắc lại kỉ niệm cũ. Cô thôn nữ nay đã dày dạn, nhắc lại kỉ niệm về nụ hôn của anh vào gò má cô, trên một rộc đất trồng rau muống ở quê nhà. Đó là “khoảng mát” trong hoài niệm không bao giờ quên được!

Một khía cạnh khác của xã hội đã được thể hiện trong truyện ngắn “Lá vẫn xanh”. Có lẽ đây là sự phản ánh về một loại thông tin thuộc lĩnh vực huyền bí nhảm nhí về ngày tận thế vào những năm đầu thập niên 60 / XX, đến nay không còn “nóng sốt” trong xã hội nữa. Tuy vậy, chút triết lí nhà văn cảm nhận được về ngày tận thế mới chua chát biết bao! Tận thế, đó là lúc tất cả đều chết, nên đó mới là lúc khát vọng công bằng tuyệt đối, thậm chí là công bằng thực sự, được thực hiện trên thế gian này!

Trong những truyện ngắn còn lại, “Con suối mùa xuân”, “Bên kia đường”, “Những giọt đắng”, đề tài là những tình cảm yêu đương, thất tình, cưới hỏi, tâm lí phân vân, hối tiếc về việc từ chối tái giá và mong tái giá của một phụ nữ… Một điều có thể nhận ra là Võ Hồng luôn luôn là một người biết kìm nén tình cảm, giữ được sự chừng mực đến mực thước một cách đáng quý. Ông là một trong dăm nhà văn ý thức rất rõ tính thiện của văn chương, trong bối cảnh văn đàn thời bấy giờ.

2. Trong “Người về đầu non” và ba truyện ngắn được người đọc đề cao

“Người về đầu non” lại là một truyện vừa, với độ dày khoảng một trăm trang sách (tr. 504 – 604). Đây là loại truyện khác với phần lớn trong số truyện ngắn trên, vốn là những lát cắt của hiện thực hoặc là những sợi chỉ cùng một màu được rút ra khỏi mớ chỉ đa sắc trong dung lượng hiện thực của kí ức. “Người về đầu non” gần với “Hoài cố nhân” ở tính chất tiểu truyện, truyện chỉ về một nhân vật nào đó. Trong truyện, hình tượng nhân vật được khắc hoạ thật công phu, tỉ mẩn, trong một khoảng thời gian từ bé đến trung niên hay gần như thế, kể từ lúc thành niên đến tận cuối cuộc đời của nhân vật. Ở cả hai trường hợp, nhân vật đều được thể hiện trọn vẹn con người với các chiều kích cụ thể. Nhưng dẫu sao, “Hoài cố nhân” vẫn chứa đựng một loại nhân vật khác với ba truyện kia, đó là nhân vật có học, dấn thân và lầm lạc về chính trị, cuối cùng đã ít nhiều phục vụ công cuộc kháng chiến sau Cách mạng Tháng Tám.

Xét trên hai phương diện, về kĩ thuật dựng truyện, về loại nhân vật, “Người về đầu non” gần gũi với hai truyện ngắn “Dấu chân sa mạc”“Thế giới của Năm Nhiều”. Riêng “Tình yêu đất”, ở đó, tuy cả con người và tính cách một nhân vật cũng được khắc hoạ, nhưng tác giả chú trọng vào việc thể hiện khát vọng và lòng thiết tha yêu mến đất của nhân vật nhiều hơn, tập trung hơn. Cả bốn truyện này được người đọc, chứ không phải tác giả, đánh giá cao (*).

“Tình yêu đất” là chuyện kể về lão Túc (tên trong giấy tờ là Nguyễn Đương). Đó là một người nông dân cùng đinh, nghèo đến mức không có một tấc đất riêng. Ông nhìn vào những nhà có đất, có lúa, nhà cao cửa rộng, vườn tược sum suê, để âm ỉ, rồi bùng lên niềm khao khát khiêm tốn mà khôn nguôi là được sở hữu một mảnh đất. Mảnh đất ở Gò Đình sở dĩ bị bỏ hoang là vì nó gần với nghĩa trang của làng, và vì cả làng đều nghe người đời trước truyền ngôn lại, đó là đất nền của đình làng cũ, từ lâu ngôi đình đã được dời qua nơi khác. Lão Túc cũng biết thế, nhưng lòng khao khát đất đã cho ông sức mạnh để vượt qua nỗi sợ sự trừng phạt của huyền bí. Ông ra tay khai phá. Nhà văn Võ Hồng hầu như đồng cảm với nhân vật đến mức sâu sắc nhất, nên từ chi tiết đến giọng văn là cả một niềm say mê, như lão Túc say mê bổ từng nhát cuốc, phát từng nhát rựa khai hoang, gieo từng nắm hạt giống, cấy từng chẹn mạ, sung sướng đến ngây ngất khi thu hoạch. Bên cạnh ông, là đứa con trai say mê cô gái làng, nay đã lên ở phố, đến mức anh ta cũng bỏ làng lên phố tìm cho ra người yêu. Cũng bên cạnh ông, là người vợ luôn ăn hiếp chồng, thường xuyên chế riễu việc khai phá đất hoang của ông. Hai nhân vật phụ này thực sự cũng chỉ hiện hữu trong truyện như các chi tiết, chứ không phải là hai tính cách hoàn chỉnh, chỉ nhằm làm nổi bật niềm đam mê đất của lão Túc, bất chấp tất cả, không những ám ảnh thần linh truyền đời mà cả sự bất hợp tác của vợ con. Duy người thư kí địa bạ thuộc chính quyền xã ủng hộ ông, giúp ông đăng kí quyền nghiệp chủ. Đó là lúc niềm sung sướng sở hữu đất đã lên đến tột đỉnh. Để rồi, từ điểm đỉnh đó, bi kịch xảy ra: Đứa con trai đi hoang trở về với cái chân què cùng niềm đau – người yêu cũ đã bỏ anh, theo người khác, rồi trở thành gái ăn sương! Và bi kịch thê thảm nhất là chính ông Túc bị rắn hổ mang cắn, khi ông đang thu hoạch hoa màu trên chính mảnh đất ông đã là nghiệp chủ. Ông lìa đời do nọc độc đã ngấm sâu, trong sự chăm lo, niềm thương tiếc của vợ con, chòm xóm láng giềng. Dẫu vậy, láng giềng vẫn còn thì thầm vào tai nhau về sự huyền bí của mảnh đất Gò Đình: “Các đẳng ở đó… linh lắm” (tr. 1154).

“Thế giới của Năm Nhiều”, một trong những truyện ngắn khắc hoạ chân dung nông dân của Võ Hồng, thể hiện một con người có thiên tư bẩm sinh về tín ngưỡng. Thế giới của Năm Nhiều là những bàn thờ, trang thờ trong nhà, lư nhang dưới gốc cây trong vườn. Nói cho đúng, tập tục thờ cúng ông bà, tổ tiên vốn là bản sắc văn hoá tốt đẹp của người Việt. Chính niềm tín ngưỡng hiếu nghĩa này đã tạo nên bản lĩnh Việt, giúp người Việt đứng vững trước sự xâm thực của các luồng văn hoá, tà giáo ngoại lai. Có điều, vì là thiên tư bẩm sinh (và tác giả còn chứng minh là đúng như mệnh thân của nhân vật, “có tử vi cư Mão Dậu gặp Kiếp Không”!), nên ở nhân vật Năm Nhiều, sự biểu hiện của phong tục ấy là thái quá, trượt qua mê tín quỷ ma, và bền bỉ suốt đời, như nghiệp dĩ. Ngay từ tấm bé, Năm Nhiều đã thích cúng bái, tế lễ, khói hương. Anh đam mê tín ngưỡng đến mức không quan tâm đến chuyện lập gia đình riêng. Anh cũng không trở thành tu sĩ Phật giáo ở chùa làng, mặc dù anh cũng yêu mến chùa làng. Điều đó xác định rằng Năm Nhiều là một người thuần lương, với nghĩa thuần thành với đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà, rất thuần Việt. Đến khi ngoài bốn mươi tuổi, vì chiến tranh, Năm Nhiều phải ra phố thị tản cư, kiếm sống, đành lập gia đình với một phụ nữ trẻ chết chồng đã có bốn đứa con riêng, thì ngôi nhà của người vợ ấy cũng trở thành nơi có nhiều bàn thờ, trang thờ và thường xuyên hương khói, vẫn một cách truyền thống nhưng ở mức thái quá.

Cũng là chuyện làng quê, nhưng nhân vật lại là một điền chủ. Đó là cô Ba Hường, trong truyện “Dấu chân sa mạc”. Chính Võ Hồng ngầm thể hiện thái độ của mình về nhân vật này khi ông miêu tả: “Ngoại trừ mấy bà quý phái ở thành thị còn chỉ có vợ Huê kiều và đĩ mới cạo, gọt cho chân tóc thẳng hàng như một đường vẽ như vậy” (tr. 243). Đó không phải là loại người quý phái nếp nhà, mà chỉ là những kẻ vốn không đứng đắn lại học đòi quý phái bằng cách gá thân hay bán thân vì tiền. Mặc dù hơi nghiêm khắc như thế, nhưng suốt câu chuyện, không phải thiếu niềm thông cảm của nhà văn đối với cô Ba Hường, người con gái lấy Hoa kiều vì tiền, chứ không phải vì tình, rồi người chồng Tàu chết sớm, để cô ở trong cảnh giàu có nhưng cô đơn, cô độc. Theo nhà văn, do Ba Hường là một thân phụ nữ trẻ, có ruộng cho tá điền làm rẽ, phải thường xuyên cảnh giác với đủ mọi mánh khoé lặt vặt làm hao hụt tô tức thu được, nên cô ta trở nên khắt khe, thậm chí có vẻ cay nghiệt trong những kì thu hoạch, cân đong… Võ Hồng cũng chỉ ra rằng, chính vì giàu có, tuổi còn trẻ như vậy, lại chưa có con, nên Ba Hường còn là “miếng mồi ngon” của những hương kiểm, thầy lại, trợ giáo “đào mỏ”, muốn lấy cô làm vợ bé. Về khía cạnh này, lại có “sự can dự” của nhân vật “ba tôi” của người xưng “tôi” để kể chuyện, nhưng nhân cách hoàn toàn khác với những kẻ chức sắc làng tổng, trợ giáo kia. Mặc dù không được học nhiều, chẳng đỗ đạt gì, nhưng nhân vật “ba tôi” vẫn mang trong máu chút sĩ khí của một hàn nho biết tự trọng. Vợ ông mất sớm, khi ông đâu đã già, để lại ông trong cảnh gà trống nuôi con. Ai cũng bảo ông nên tục huyền, kiếm kế mẫu cho đàn con, và đó không phải không hợp tình hợp cảnh. Cô Ba Hường lại là người ở sát hàng rào nhà ông! Hai người xem bộ cũng đã có cảm tình với nhau, mặc dù chưa nói với nhau lời nào. Chi tiết cô Ba Hường thường tỏ vẻ trìu mến chú bé “tôi”, khiến người đọc ngỡ sự kết hợp giữa nhân vật “ba tôi” và cô Ba Hường là chuyện không thể không diễn ra. Nhưng có một hôm, khi nhân vật “ba tôi” ngồi trồng vài gốc cà chua với nhân vật “tôi”, ông nghe được câu chuyện giữa cô Ba Hường với hương kiểm Mót – người dạm mối cho một ông lại mục về hưu –, có ý chê nhân vật “ba tôi” nghèo hơn viên cựu lại mục, khiến ông bị xúc phạm lòng tự trọng, và quyết chấm dứt mối cảm tình chưa một lời thốt ra ấy. Và kế đó, viên cựu lại mục kia một hôm tìm cách để ở lại ban đêm tại nhà cô Ba Hường. Ông được sắp xếp ngủ tại hàng ba, cách ngăn với nhà trong bằng một dãy song can. Thế rồi, nửa đêm, y bị cự tuyệt. Trên trán y, có vết máu. Còn cô Ba Hường xuất hiện trên sân với cây đèn trong dáng vẻ xộc xệch, áo bị xé rách, tóc bị xoã tung, và nét mặt cô đanh lại, đầy giận dữ. Rồi ngày tháng trôi qua, cho đến khi cô Ba Hường đã đến tuổi hồi xuân, có ngờ đâu lại có lời đồn đoán cô ta lại dan díu quan hệ bất chính với một tá điền trai trẻ. Thêm vào đó, chính Thủ Phò, người hàng xóm phía bên kia vách rào nhà Ba Hường, đối xứng với nhà nhân vật “ba tôi”, lại quyết hại người, giở trò hô trộm giữa đêm, khiến cả xóm thức dậy, rồi tung tin kẻ trộm chính là tên tá điền trai trẻ, mới vào nhà Ba Hường ra (tr. 256 – 259)! Nhà văn viết: “Thủ Phò, – lại cũng Thủ Phò –, để mắt dòm dỏ nhiều hơn hết nên những tin xấu đều do miệng Thủ Phò phát ra. Tại sao Thủ Phò xấu miệng? Tôi cho rằng lí do là bởi cô Ba giàu còn ông thì nghèo. Chắc chỉ vì lòng ghen ghét… […] … Lão tin chắc rằng dù thèm khát đàn ông, cô Ba cũng không bao giờ nghĩ đến lão. Không ăn được thì lão phá vậy. Một đêm kia tôi nghe có tiếng la “ăn trộm! Bớ làng xóm ơi, ăn trộm! Ăn trộm!”… (tr. 256 – 257). Thủ Phò phá mối quan hệ bất chính giữa cô Ba Hường với gã tá điền trẻ chăng? Hay đó là vụ trộm có thật nhưng chưa thành, nhờ Thủ Phò “phá”? Hoặc giả, phải chăng, vụ hô trộm cũng có thể do Thủ Phò dàn dựng, nên người đọc có thể nghĩ rằng, bóng người chèo ghe trốn thoát trên sông khuya có lẽ cũng là người do y thuê mướn!? Nếu thế, thủ đoạn thâm độc đến thế là tột cùng! Người ta càng tin khi cô cứ ở lì trong nhà và rời nhà cả tháng trời, bảo là đi chữa bệnh, mà thiên hạ cho rằng cô ta dính bầu và đi xa để sinh nở, gửi con cho ai đó nuôi! Thêm vào đó, còn có nhiều tình tiết, chỉ được xét trên bề mặt của các tình tiết đó, theo cách suy diễn quy nạp, đều có thể kết án Ba Hường. Chuyện của Ba Hường, về khía cạnh này, là cả một tấn bi hài kịch. Đó là bi hài kịch của một gái goá còn trẻ, giàu có, ở nông thôn, không có đối tượng ngang nhau về của cải, không chịu làm vợ bé, không muốn bị “đào mỏ”, hoặc giả, không thể sống độc thân thanh tịnh, bị sự ghen ăn ghét ở của hàng xóm mà mang tai tiếng. Ở đời, có hàng xóm tốt (hai nhân vật “ba tôi”, “dì tôi”), cũng có hàng xóm xấu (Thủ Phò…)! Ở nông thôn, người ta lại có thói tệ là không cần đến quả tang, không cần chứng cứ xác thực đã được thẩm tra, giám định (như luật pháp quy định, khi quy kết một ai đó), mà chỉ thích tin đồn, không rõ thực hư, thích lời suy diễn, thêu dệt, đơm đặt! Nhà văn viết: “Ở miền tôi, câu chuyện nào li kì thì được người ta nghe và truyền đi, không cần xét xem là đúng hay sai sự thật. Chuyện nào hay thì được coi là thật. Nghe chuyện người khác là một lối tiêu khiển. Miền quê nghèo nàn không có hát bội, không có kịch nhạc nên mới chịu một tâm trạng ích kỉ kém lịch sự như vậy” (tr. 259). Rồi ngày tháng cũng cứ trôi qua cho đến khi Ba Hường trở thành một bà già héo hon, chết trong tư thế ngồi bệt ở nền nhà, đầu ghếch lên một góc tường (tr. 265).

“Dấu chân sa mạc” là một truyện ngắn được viết theo lối khắc hoạ gần như trọn đời một nhân vật, kể từ khi nhân vật còn rất trẻ cho đến khi thành bà lão, chết trong cô độc.

Với cách viết của Võ Hồng ở truyện ngắn này, nhà văn có thể đưa người đọc đến những hướng suy diễn khác nhau, không những trong vụ có tin đồn đoán liên quan đến người tá điền trẻ, mà còn ở vụ viên cựu lại mục ở lại vào ban đêm (người ta không hiểu vì sao dãy song can lại có thể mở được giữa khuya?). Vì có thể suy diễn với nhiều hướng khác nhau như vậy, nên vô hình trung Võ Hồng đã treo lên giữa trời những dấu hỏi (gieo rắc nghi án). Theo nguyên tắc đạo lí và pháp lí, điều gì đã rõ mười mươi mới viết, nếu không thì không nên viết một chữ nào. Từ đó, người đọc không thể không thầm hỏi, phải chăng “Dấu chân sa mạc” là một truyện ngắn trượt ra ngoài phong cách đôn hậu của Võ Hồng? (*).

“Người về đầu non” cũng thuộc loại tiểu truyện như thế, mặc dù đây là một truyện vừa, tuy có người xếp vào loại tiểu thuyết. Đó là chuyện kể về cuộc đời ông bác ruột của nhân vật “tôi”. Vợ chồng ông không con, nên “tôi”, vốn là con ruột của em trai ông, được ông đưa về nuôi từ tấm bé, cho ăn học, lo cả chuyện cưới vợ cho cháu, như một người cha đẻ, lại thương yêu, lo lắng cho đàn cháu gọi ông bằng ông, như ông nội ruột. Suốt cả một trăm trang sách, cuộc đời ông bác được nhân vật “tôi” hồi ức, viết lại với giọng văn biết bao là trìu mến, nhưng không vì thế mà chất hiện thực của câu chuyện bị mờ lấp. Nói chính xác hơn, lòng trìu mến của “tôi” chìm ẩn trong những chi tiết rất thật, và những chi tiết ấy lại chính là những gì đã thành ấn tượng sâu sắc như hoài niệm đầy thương yêu và biết ơn. Qua cuộc đời dài bảy, tám mươi tuổi của ông bác, gắn liền với cuộc đời nhân vật “tôi”, câu chuyện chứa đựng biết bao chi tiết của một làng thôn thuộc tỉnh Phú Yên được ghi nhận, tái hiện sinh động, với một giọng văn trong sáng, đôn hậu và giàu chất hoài niệm, khiến “Người về đầu non” trở thành một truyện vừa cứ mãi mời gọi tìm về một thời quá khứ của nông thôn Nam Trung bộ xưa, cứ mãi ngân nga trong lòng người đọc.

C.

Nhà văn Võ Hồng cùng với ba nhà văn khác tại Miền Nam, thời kì 1954-1975 – Sơn Nam, Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân –, được người đọc trân trọng, yêu mến vì tính dân tộc thể hiện trong tác phẩm. Dĩ nhiên, ở Võ Hồng, vẫn có những nét khác biệt, khác biệt ngay cả phần hạn chế của ông.

Chưa nói đến toàn bộ tác phẩm của nhà văn Võ Hồng, chỉ ngay mười một truyện ngắn, một truyện vừa kể trên, bài viết này cũng mới thử khảo sát ở hai khía cạnh. Đó là bóng dáng lịch sử và hình ảnh con người làng quê ở vài làng thôn thuộc tỉnh Phú Yên. Nói rõ ra, như thế là phiến diện. Nhưng để đầy đủ, trọn vẹn, việc nghiên cứu, phê bình phải dẫn đến cả một chuyên luận khá dày về số trang.

Dẫu còn những hạn chế, về lịch sử, về tư tưởng, nhưng tôi tin nhiều thế hệ người đọc vẫn sẵn sàng mỉm cười lướt qua để chú mục, lưu tâm đến những mặt sáng, không thể tìm đâu ra, nếu không tìm ở tác phẩm Võ Hồng. Toàn bộ tác phẩm của ông đã trở thành di sản văn chương về một thời kì ở một miền đất nước, trong nền văn chương dân tộc, mặc dù ông hiện vẫn còn sống, ở tuổi suýt soát chín mươi. Có di sản văn chương nào mà không tồn tại mặt hạn chế! Vấn đề là thái độ của các thế hệ hậu bối đối với di sản ấy.

TXA.
14:30’, 06-12 HB11 (2011)
15:57’, 07-12 HB11
___________________

(*) Nhiều tác giả, “Từ điển văn học”, bộ mới, Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 2005 – 2007 (xem mục từ “Võ Hồng”). Sở dĩ tôi dừng lại khá lâu ở truyện “Dấu chân sa mạc” với thiển ý của mình, là vì truyện này được đánh giá là hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Võ Hồng.

Đã đăng:
Tttđt. Hội Nhà văn Việt Nam:
http://vanvn.net/news/11/1328-bong-dang-lich-su-va-lang-que-trong-mot-it-truyen-ngan-vo-hong.html
& Tttđt. Hội Nhà văn TP.HCM.:
http://www.nhavantphcm.com.vn/tran-xuan-an-doc-truyen-ngan-vo-hong.html
http://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/tran-xuan-an-doc-truyen-ngan-vo-hong.html
http://vanhocquenha.vn/view.asp?n_id=4677&n_muctin=10

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , | Leave a Comment »

Mời xem lại bài “NHỮNG BIỂN TÔI QUA”

Posted by Trần Xuân An trên 01.12.2011

Kính mời xem lại bài “NHỮNG BIỂN TÔI QUA”:

https://txawriter.wordpress.com/2011/07/16/chum-tho-cung-ta-co-dong-nam-a-va-ca-loai-nguoi/

Trân trọng,
Trần Xuân An
01-12 HB11 (2011)

Posted in Chưa phân loại | Leave a Comment »