Chiếc cầu Ý Hệ (cầu Hiền Lương)

Người bắn nhau nhưng đâu phải bắn nhau, Bắn những ngoại xâm sau lưng nhau đó (TrầnXuânAn)

Archive for Tháng Sáu, 2011

Về BẢN TIN CỦA TÂN HOA XÃ NGÀY 28.6.2011, mời đọc lại một bài viết

Posted by Trần Xuân An trên 30.06.2011

hidden hit counter

 

 

 
PHÊ PHÁN TRUNG QUỐC LỤC ĐỊA (& ĐÀI LOAN),


CHÚNG TA CHỈ
CÓ MỘT MỤC TIÊU: TOÀN VẸN ĐẤT & NƯỚC,


GIÀNH LẠI
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA


VÀ NHỮNG ĐẢO
TRƯỜNG SA BỊ XÂM CHIẾM…

 

 


______________________________________

 

Về BẢN TIN CỦA TÂN HOA XÃ NGÀY 28.6.2011,
trân trọng mời xem lại:
PHÊ PHÁN SỰ VIN VÀO VÀ DIỄN DỊCH SAI LỆCH CÔNG HÀM 14-9-1958

BỔ CỨU THÊM MỘT LUẬN CỨ, LUẬN CHỨNG
NHẰM PHÊ PHÁN SỰ VIN VÀO VÀ DIỄN DỊCH SAI LỆCH CÔNG HÀM 14-9-1958

Trần Xuân An
http://www.tranxuanan-writer.net/Home/thong-bao-cap-nhat/dacbiet-ve-hoangsa-truongsa

Đã đăng ở TranNhuongCom, ngày 13/6/2010

Xem thêm:
CÓ PHẢI BỨC CÔNG HÀM CỦA THỦ TƯỚNG PHẠM VĂN ĐỒNG
LÀ LÁ BÀI TẨY TRONG TÌNH HỮU NGHỊ VIỆT-TRUNG?

Đinh Kim Phúc
http://xuandienhannom.blogspot.com/2011/06/cong-ham-cua-thu-tuong-pham-van-ong-va.html

Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa
Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc

— TS. Từ Đặng Minh Thu, Tạp chí Thời Đại Mới —

LƯU Ý: VĨ TUYẾN 17 (giữa vĩ tuyến 16 & vĩ tuyến 18)

Bấm vào đây: Bản đồ lớn hơn

Nguồn bản đồ: Tập “Bản đồ Việt Nam” & bản chụp của Maxreading

Bản đồ Việt Nam – toàn quốc: đất liền & biển đào

     

 



Trường Sa: Tuyên bố chủ quyền của các bên

 Trường Sa: hiện trạng

 

Nguồn bản đồ: nghiencuubiendong & boxitvn

https://i0.wp.com/lh4.googleusercontent.com/-cauf0UElC5o/Tgz4Wo4pOyI/AAAAAAAAVfA/XwHRa9YyCNM/s800/hoang-sa-truong-sa_says-of-nguoiHoa_BBC-16-6hb11.jpg



Bản đồ: HÌNH CÁI LƯỠI BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC (cũng như ĐÀI LOAN) TRÊN BIỂN ĐÔNG

Nguồn bản đồ: BBCVietnamese & Báo Người Lao Động

Bài ý kiến ngắn của TXA. đã đăng lại (có bổ sung) ở TranNhuongCom

Ở CÁC KHUNG PHỤ (tạm dùng các khung “commment”) BÊN DƯỚI KHUNG CHÍNH NÀY,
CÓ NHỮNG THÔNG TIN RẤT BỔ ÍCH

SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA. Nxb. Sự Thật, 10-1979PDF

Tệp PDF nhẹ hơn (6 MB)

        

Bản đồ và mưu đồ bành trướng của Trung Quốc (trích từ sách trên):
Hình ảnh 1
Hình ảnh 2
Hình ảnh 3: Một trang được quét chụp (scan)

 

 

 


SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA (Bản WORD)


(văn kiện quan trọng của Bộ Ngoại giao Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979 tại Hà Nội), NXB. SỰ THẬT, 10-1979



Xem thêm:


VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC (bản WORD)


(nhan đề chính thức là “Bị vong lục của Bộ Ngoại giao Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gây khiêu khích, xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở vùng biên giới”, công bố ngày 15-03-1979 tại Hà Nội), NXB. SỰ THẬT, 4-1979


 

 


______________________________________

 

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , , , , | 14 Comments »

Thơ: Biển đảo và sử

Posted by Trần Xuân An trên 25.06.2011

hidden hit counter

BIỂN ĐẢO VÀ SỬ
Trần Xuân An

sững ngừng ngọn gió rộng dài
bỗng đau con sóng miệt mài trôi nghiêng
nhà giàn, đứng võng chung chiêng
nghiêm xanh mấy đảo bao triền cỏ cây

biển tràn trang báo tháng nay
truyền hình sôi nghẹn ngập đầy sóng xa
Hoàng Sa – Biên giới – Trường Sa
lại Tàu gây hấn, phố oà bích chương

mơ chăng Hoàng Sa yêu thương
về ta, quần đảo quê hương nghìn đời
những đảo Trường Sa mất rồi
máu xương ta, Tàu rã rời buông tay

ước mơ, không phải cuộc say
cháy bằng rượu lệ xót cay, ngậm hờn
ước mơ, không mù nguồn cơn
sử như gáo nước tỉnh hồn ai không

sóng khơi – tóc dựng trắng bông
gió căng thẳng, sử xoáy lòng, hồng tim
lính đang nâng súng lặng im
sử không còn phải truy tìm kho xưa…

không thể không, nhưng còn chưa
súng bây giờ, thuở gươm khua, khác gì
rộng chiều biển đảo nghĩ suy
bốn phương mở bến, chân đi mắt nhìn…

14: – 19:01, 24-6 HB11
TXA.

Bài đã đăng:
TranNhuongCom (25-6 HB11):
http://trannhuong.com/news_detail/9782/BIỂN-ĐẢO-VÀ-SỬ
PhongDiepNet (26-6 HB11):
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13048
Nhà văn TP.HCM. (26-6 HB11)
http://www.nhavantphcm.com.vn/tran-xuan-an-bien-dao-va-su.html

Xem thêm THƠ TXA. VỀ HOÀNG SA, TRƯỜNG SA:
Toàn vẹn Đất và Nước


Xem thêm:

Nguyễn Đình Đầu, “Chủ quyền biển đảo Việt Nam qua các bản đồ cổ“, VietNamNet:
http://community.tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-06-23-chu-quye-n-bie-n-da-o-vie-t-nam-qua-ca-c-ba-n-do-co-?print=1

Trường Minh, “Sự thật về sự kiện Hoàng Sa 1974“, VietNamNet & Tạp chí Sông Hương:
http://tapchisonghuong.com.vn/modules/printview.php?ID=8226

Hoàng Trường, “Xuyên tạc sự thật và hăm dọa dân tộc Việt Nam“, Đại Đoàn Kết:
http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=32928

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , | Leave a Comment »

Chùm thơ: TOÀN VẸN ĐẤT VÀ NƯỚC

Posted by Trần Xuân An trên 21.06.2011

hidden hit counter

Chùm thơ:
TOÀN VẸN ĐẤT VÀ NƯỚC
Trần Xuân An

 

"ĐẤT NƯỚC CHÚNG TA THÀNH NẮM ĐẤM",
Trần Xuân An, thơ và tạo hình minh họa.

Trong tranh minh họa này, có sử dụng bản đồ TRUNG QUỐC & HÌNH LƯỠI CHÍN VẠCH, sẽ được tạp chí J.W.M. cải chính (xem VietNamNet, 21-6-2011)



HOÀNG SA, THUYỀN ĐI

trôi trôi biển biếc
xanh xanh xanh xanh
cái xanh biền biệt
da diết, sao đành!

TRƯỜNG SA

trắng ngày đêm trắng
sóng trắng đảo xa
vượt cạn đắng mặn
ngọt nỗi nhớ nhà.

1995

TOÀN VẸN ĐẤT VÀ NƯỚC

rừng cổ kết vàng trong cây lá
nghìn xưa, bạc khối lượn khơi xa
vạn khoang dầu mỏ ngời đáy biển
Trường Sơn muôn thuở nối Trường Sa

Trường Sa máu ứa san hô đỏ
nhức nhớ Hoàng Sa bầm cát vàng
gần bốn mươi năm Tàu chiếm đóng
đồng chí đấy ư? Lưỡi chém ngang!

lưỡi liếm Biển Đông, thành biểu tượng
muôn đời thế giới rũ cười khinh
kẻ nào li gián? Không, tham vọng
lưỡi tham sôi óc tự Bắc Kinh

Đất Nước chúng ta thành nắm đấm
thế đành đấm thốc Đại Hán nghe!
ước chi Hoa Lục (*): chùm hoa thật
ta vuốt hoa, lưỡi giặc rụt về

cánh tay gân guốc: hình Đất Nước
biển đảo: ngực xanh, ngời chiến công
thật lòng muốn Đất toàn vẹn Đất
Nước giữ nguyên biển đảo cha ông.

Trần Xuân An
19 – 20:42, 20-6 HB11

(*) Một danh từ khá phổ biến, cố định về hàm nghĩa, được sử dụng tương đương với Trung Quốc (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), chỉ Trung Hoa lục địa, để nhấn mạnh ý nghĩa: Trung Hoa đất liền. Cũng có thể viết:
nếu Hoa Lục Địa là hoa thật (nếu Hoa đất liền là hoa thật)
ta vuốt hoa, lưỡi giặc rụt về

(tác giả bổ sung chú thích, 22-6 HB11).

Bài đã đăng ở
Tạp chí Sông Hương, ngày 21-06-”11
, mục “Vọng ra biển”:
http: // tapchisonghuong. com. vn /index. php?main= newsdetail& pid=0&catid= 99&ID= 8273 &sh name = Chum-tho-Tran-Xuan-An

Tcđttl. PhongDiepNet:
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13019
Tcđttl. TranNhuongCom:
http://trannhuong.com/news_detail/9755/CHÙM-THƠ-BIỂN

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , | 1 Comment »

Nhóm chủ chiến yêu nước triều đình Huế là “nhóm quyền thần đắc thế” sao?

Posted by Trần Xuân An trên 18.06.2011

hidden hit counter

NHÓM CHỦ CHIẾN YÊU NƯỚC TRIỀU ĐÌNH HUẾ (1883-1885) LÀ “NHÓM QUYỀN THẦN ĐẮC THẾ” SAO?

(Đó là một câu hỏi nêu lên để nhớ lại một vấn đề cũ, đã được các nhà sử học và bản thân tôi góp phần nghiên cứu, nhận định, và ở đây, chỉ là những dòng trả lời ngắn gọn, nhân đọc vài trang đầu bài viết của PGS.TS. Trần Ngọc Vương trên tạp chí Sông Hương số 268, tháng 6-2011)

TXA.
18-6 HB11

Posted in Chưa phân loại | Leave a Comment »

Biểu tình phản đối Trung Quốc — quảng trường dân chủ

Posted by Trần Xuân An trên 13.06.2011

hidden hit counter

Ý THỨC CÔNG DÂN:

Nhân sự kiện biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn,

leo thang xâm lược,

nghĩ đến một quảng trường tự do biểu tình chính trị

(ghi nhận & nghĩ ngợi sau khi sự kiện đã diễn ra)

Trần Xuân An

Với mục đích lên án Trung Quốc gây hấn, leo thang xâm lược trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam gần đây nhất, hai lần biểu tình diễn ra tại Hà Nội và TP.HCM. vào hai ngày 05-06 và 12-6-‘’11. Nhân đó, những người biểu tình cũng tiếp tục lên án sự xâm lược, chiếm đóng từ lâu bởi Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa cũng như một số hòn đảo thuộc Trường Sa, vốn của Việt Nam. Các thông tin, đặc biệt là các hình ảnh chụp và khúc phim ngắn được quay tại chỗ, cho thấy đã có sự ngăn chặn, chia tách, phân tán những người biểu tình thành từng nhóm nhỏ, đồng thời cũng có sự bắt bớ họ ngay giữa trung tâm thủ đô và TP.HCM.. Trong đó, sự có mặt với các khẩu hiệu trên tay trong hai cuộc biểu tình ấy của một số trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ lão thành cách mạng, cùng với thư ngỏ về cách đưa tin của báo chí nước ta, đã thu hút sự lưu tâm của nhiều người trong và ngoài nước. Tập thông tin điện tử tự lập Bauxite, báo mạng BBC cũng như nhiều tập thông tin điện tử cá nhân có uy tín trong nước đều có đăng tải tin tức, hình ảnh về sự kiện ấy.

Một sự kiện khác: Hôm nay, 13-6-‘’11, Hải quân Việt Nam cũng đang bắn đạn thật trong cuộc diễn tập được thông báo trước, ở ngoài khơi biển Quảng Nam. Phải chăng đó cũng là một sự biểu tình thị uy trước sự gây hấn, leo thang xâm lược của Trung Quốc, nhưng không có khẩu hiệu cụ thể, mà chỉ thông báo đó là cuộc diễn tập quân sự? Các báo chí công lập, các điểm mạng vi tính tự lập, nhất là “ngoài luồng” ở trong nước và báo chí các nước trên thế giới hầu như đều có đưa tin về cuộc diễn tập bắn đạn thật này (*).

Và, có thể nói báo chí chính thống cũng đã biểu tình. Từ cuối tháng 5 vừa qua đến nay, sau hai vụ tàu Trung Quốc gây hấn vào ngày 26-5 và ngày 06-9, báo chí chính thống của nước ta lên tiếng tố cáo dã tâm của Trung Quốc khá mạnh mẽ, có thể nói là mạnh mẽ nhất, kể từ sau chiến tranh biên giới hồi 1979. Đặc biệt, cũng trong tinh thần phản ứng khá mạnh mẽ đó, báo giấy lẫn báo mạng và báo nói (truyền hình) có đăng hoặc đề cập đến bài trả trời phỏng vấn của nguyên đại tướng, chủ tịch nước Lê Đức Anh (02-6-‘’11), bài phát biểu của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (8-6-‘’11). Sáng nay, báo chí lại đăng thông tin về việc “Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam” (12-6-‘’11). Như vậy, báo chí chính thống cũng đã biểu tình.

Tuy có thể diễn đạt là cả ba sự kiện trên đều là biểu tình chính trị, và về đại thể là đều cùng một nội dung, một mục tiêu, nhưng đúng nghĩa nhất, theo như cụm từ “quyền biểu tình” trong các bản Hiến pháp nước ta, từ 1946 đến 1992, vẫn là sự kiện đầu tiên trong bài ghi nhận sơ lược này. Thế nhưng, hai cuộc biểu tình thực sự tại Hà Nội và tại TP.HCM. đều bị công an ngăn chận, trấn áp, bắt bớ. Tại sao? Chỉ đơn giản là hai cuộc biểu tình đúng nghĩa ấy không được sự chỉ thị, tổ chức của các cơ quan, đoàn thể, mà chỉ là biểu tình tự phát, tự nguyện của nhiều lứa tuổi trong xã hội, phần lớn là thanh niên, trước tình hình Trung Quốc gây hấn, leo thang xâm lược gần đây nhất.

Quả là như vậy. Nhưng biểu tình (quyền cùng nhau xuống đường phố, đọc hiệu triệu, giăng bích chương, hô khẩu hiệu, tuần hành để bày tỏ thái độ, ý nguyện) một cách tự nguyện, tự phát như thế mới sinh động, mới thể hiện hào khí và tinh thần dân chủ thực sự.

Sự quản lí của chính quyền, ở trường hợp này, chỉ có thể là quy định hẳn một khu vực tại trung tâm mỗi thành phố, thị xã, huyện lị, dành riêng cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có lớp trẻ tuổi, thể hiện quyền biểu tình chính trị (và cả về xã hội nữa, trong trường hợp khác), một quyền dân chủ hết sức chính đáng của mình, với một điều kiện là người tham gia biểu tình phải thể hiện lập trường bằng ngọn cờ Tổ quốc – cờ đỏ sao vàng. Đồng thời, công an có nhiệm vụ phải bảo vệ họ, và chỉ ngăn chận những trường hợp vượt ra khỏi khu vực cho phép, có thể khiến giao thông trên đường phố bị cản trở. Lẽ ra, như thế, không ai có quyền bắt bớ họ.

Về quảng trường tự do biểu tình rất dân chủ và rất văn minh ấy, hình như một số nước cũng đã thực hiện từ lâu.

Trần Xuân An
14:, 13-6 HB11

(*) Xem thêm thông tin về cuộc diễn tập thường kì của Hải quân Việt Nam:
http:// vietnamnet.vn /vn /tin-nhanh /25301 /xac-nhan- tap-tran- binh-thuong- tren-bien-dong .html

 



Một hình ảnh không đẹp mắt

Nguồn: Web
Bauxite 

 

(Bài đã được gửi đăng)
http: // boxitvn. wordpress. com /2011 /06 /16 /m%e1%bb%99t- qu%e1%ba%a3ng- tr%c6%b0%e1%bb%9dng- t%e1%bb%b1- do- bi%e1%bb%83u- tnh- chnh- tr%e1%bb%8b/
http: // boxitvn. blogspot. com /2011 /06 / mot- quang- truong- tu- do- bieu- tinh- chinh .html

Posted in Chưa phân loại | 3 Comments »

Bài về trường ca HẢI BẰNG: Tạp chí SÔNG HƯƠNG 268

Posted by Trần Xuân An trên 11.06.2011

hidden hit counter

HẢI BẰNG, NHÀ THƠ VỚI NHỮNG TÂM THẾ ĐỘC HÀNH (10–-14-02 HB11 [2011]) –
bình luận văn chương
Trần Xuân An
BÀI VIẾT ĐÃ ĐƯỢC ĐĂNG
TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG,
số 268, tháng 6-2011, tr. 72-76 Mới!

Posted in Chưa phân loại | Leave a Comment »

Chùm thơ 5 bài – 6 HB11

Posted by Trần Xuân An trên 04.06.2011

hidden hit counter

CHÙM THƠ NĂM BÀI
THÁNG 6 HB11 (2011)

Trần Xuân An
TƯỞNG NIỆM CẬU

bến xưa rân rấn nắng
vườn siêu thoát – nhạc tang

trống chiêng chiều tiễn biệt
bàu hương chưa kịp dâng!
sô trắng trăm vầng trán
hoa phủ đồi vĩnh hằng

bao mộ phần họ ngoại
nghi ngút nhoà khói nhang.

Thượng Xá, 24 – 26-2
& chiều 02-6 HB11

PHỐ HUYỆN DIÊN SANH

tròn mắt nhìn đình cũ
nguy nga hơn nghìn xưa

chợ huyện hai trăm tuổi
đất trống trơ gió lùa!
nhà lồng ven phố mới
rộng đến đông còn thưa

trăm tiếng chào thân mến
chưa bao giờ già nua.

25-2
& chiều 02-5 HB11

ĐINH NINH

Kính tặng Trúc Lâm & An Cư

lòng không chia hai cõi
huyết thống và nghĩa tình

tự bao giờ vẫn vậy
nhiều năm trước sơ sinh
quê nguồn gần quê gốc
cũng là Quảng Trị mình

nén hương, thơ viếng mộ
ngát một niềm trung trinh.

27-02
& tối 02-6 HB11

THÀNH PHỐ QUÊ HƯƠNG

ghé Đông Hà quá vội
bởi lòng còn ướt tang

tiệm nước nghiêng phố dọc
gần chăng triền sông ngang
bối rối nhìn định vị
bằng kí ức – tan hoang

lạc trong bài thơ nhớ
ngắm Đông Hà sang trang.

26 – 28-02
& tối 02-6 HB11

BA MƯƠI BẢY NĂM

Tặng bạn bè ĐHSP. Huế (1974-1978)

nhớ trường thời sông biếc
tuổi ngỡ hoài học trò

điện thoại lay tóc cước
trong tay: cá mắt ngơ!
(cùng bạn bè kết lưới
nghẽn mặn niềm thương thơ)

thì giăng tơ trời nhé
sông lụa còn phất phơ.

TP.HCM., 29-5
& 11:30 – 16:30, 30-5 HB11

Trần Xuân An

Có thể xem tại:
http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=12887
(chiều 03-6 HB11)
www.tranxuanan-writer.net…

__________________________________________

Đáp lời băn khoăn rất ân tình của một người bạn thân mến: Xin cảm ơn, và không gì hơn là làm thêm bốn câu thơ nối vào bài “Ba mươi bảy năm”, mặc dù chỉ tám câu vốn có, thiết tưởng cũng đã đủ rồi:

BA MƯƠI BẢY NĂM

Tặng bạn bè ĐHSP. Huế (1974-1978)

nhớ trường thời sông biếc
tuổi ngỡ hoài học trò

điện thoại lay tóc cước
trong tay: cá mắt ngơ!
(cùng bạn bè kết lưới
nghẽn mặn niềm thương thơ)

thì giăng tơ trời nhé
sông lụa còn phất phơ
(thắm dệt màu vườn Huế
bốn năm. Chưa cạn khô)?

mình đâu bạc lòng bút
sông nắng rộng giấy chờ.

TP.HCM., 29-5
& 11:30 – 16:30, 30-5 HB11
& 07-6 HB11

Trần Xuân An

Posted in Chưa phân loại | Leave a Comment »

THỦ PHÁP “DÒNG Ý THỨC” … TRONG “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”

Posted by Trần Xuân An trên 01.06.2011

hidden hit counter

THỦ PHÁP “DÒNG Ý THỨC”
VỚI ÁM ẢNH VỀ SỰ THẬT
TRONG “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”

https://i0.wp.com/lh3.googleusercontent.com/-fvj7wqT7eL4/TeW_Y0ciqjI/AAAAAAAAVaA/Eu6vJMsSRF8/s400/noi-buon-chien-tranh_webTXA.JPG

Nguồn ảnh bìa: http://www.tranxuanan-nhavan.name.vn

Trần Xuân An

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” (*) của Bảo Ninh trong hai mươi năm qua, ở trong nước, đã tạo ra những luồng nhận định khác nhau và trái chiều nhau, nhất là ở thời điểm sau ngày được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, một năm sau khi nó được chính thức xuất bản (1991). Cũng về nó, nhưng ở nước ngoài, hầu như các bình luận đều một mực đề cao. Gần đây nhất, một giải thưởng từ Nhật Bản đã được trao cho “Nỗi buồn chiến tranh” với ý kiến đánh giá rất cao, rằng đó là “tinh hoa của văn chương nhân loại”.

Tôi cảm thấy cần thiết phải đọc lại tiểu thuyết ấy một lần nữa, sau lần đọc đầu tiên vào năm 1992. Đọc, ban đầu tôi chỉ nhằm rà soát lại thẩm thức của chính mình. Đọc xong, tôi lại muốn viết về cuốn sách đó những dòng cảm nhận. Cảm nhận, chứ không phải nghiên cứu, cũng không phải cảm nhận trên cơ sở đã tự nghiên cứu, tôi tự giới hạn như thế, nên cũng không thực hiện công đoạn thiết lập lịch sử đề tài.

Giả định như lúc này, có người bạn văn nào đó vui chuyện hỏi tôi nghĩ gì về “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, chắc hẳn tôi cũng vui chuyện trả lời như một cách trao đổi.

Điều có thể nói ngay, đó là về kĩ thuật viết tiểu thuyết theo trường phái “dòng ý thức”. Có lẽ không thể không công nhận Bảo Ninh đã thành công khi vận dụng thủ pháp “dòng ý thức”, vốn được xem như thủ pháp chủ yếu của James Joyce, William Faulkner… Nói rõ hơn, mặc dù không phải là người đầu tiên ở Việt Nam vận dụng nó ở cấp độ chủ đạo, xuyên thấm từng chi tiết, chương đoạn, quán xuyến toàn bộ cuốn tiểu thuyết, nhưng Bảo Ninh vẫn là người đầu tiên trong nền văn học cách mạng đã vận dụng đến mức như thế. Đặc biệt, Bảo Ninh ý thức rất rõ về kĩ thuật đó, và thể hiện điều đó một cách khá minh bạch ngay trong “dòng ý thức”, dòng chảy tâm trạng, hữu thức và vô thức, hiện tại, quá khứ và cả dự định tương lai đan xen, lẫn lộn của nhân vật chính tên Kiên. Thậm chí, có những khi bị vô thức xâm chiếm, hay nói rõ hơn, những sự thật bị chôn vùi, che lấp bởi ý thức do áp lực của truyền thông chính thống một chiều, chúng đã bật dậy, đòi hỏi phải được lên tiếng, để trình bày cho mọi người thấy “nửa kia của sự thật” bằng một kĩ thuật hiệu quả nhất. Kĩ thuật ấy, nhà văn Kiên viết hẳn ra bằng ngôn ngữ khá tường minh:

“Mặc dù vẫn hết trang này sang trang khác, chương này sang chương khác, song càng viết Kiên càng âm thầm nhận thấy rằng, tuồng như không phải là anh mà là một cái gì đấy đối lập, thậm chí thù nghịch với anh đang viết, đang không ngừng vi phạm, không ngừng lật ngược tất cả những giáo điều cùng tất cả những tín niệm văn chương và nhân sinh sâu bền nhất của anh. Và hoàn toàn không cưỡng nổi, mỗi ngày Kiên một dấn mình thêm vào vòng xoáy của nghịch lý hiểm nghèo ấy của bút pháp. Ngay từ chương đầu tiên cuốn tiểu thuyết của anh đã buông lơi cốt truyện truyền thống, không gian và thời gian tự ý khuấy đảo, không kể gì đến tính hợp lý, bố cục bấn loạn, dòng đời các nhân vật bị phó mặc cho ngẫu hứng. Trong từng chương một Kiên viết về cuộc chiến tranh một cách rất tuỳ ý như thể ấy là một cuộc chiến tranh của riêng anh. Và cứ thế, nửa điên rồ, Kiên lao đầu vào chiến đấu lại cuộc chiến của đời mình một cách đơn độc, phi hiện thực, một cách cay đắng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc” (sđd., tr. 52-53).

Thật ra, làm gì có cái gì đó đối lập, thù nghịch với anh, tồn tại trong anh, đang viết thay anh, mà đó chính là trạng thái tự phân thân, tương khắc, tương sinh theo quy luật biện chứng của tâm lí con người, của hiện thực xã hội (hiện thực xã hội ấy phản ánh vào vô thức của Kiên). Theo nguyên lí âm dương, hễ cái gì đi đến cực đoan thái quá, chính nó sẽ tự phản hồi về một cực đối lập ở một mức độ cực đoan tương đương, đối xứng, hệt như quả lắc, nhằm thiết lập lại sự quân bình cho tâm lí, cho sự vận động, phát triển hiện thực của mỗi cá thể, của nhiều bộ phận nhân dân, của toàn xã hội. Đó là thông điệp và ý nghĩa của một danh ngôn: “Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì chỉ là giả dối”.

Kiên là một người lính từ Hà Nội vào chiến đấu tận Bắc Tây Nguyên từ 1965, và vào năm 1975, trận đánh cuối cùng của anh diễn ra tại Sài Gòn – Gia Định, khu vực Lăng Cha Cả và phi trường Tân Sơn Nhất. Sau đó, Kiên xuất ngũ, về sống tại một căn hộ do thân sinh để lại, tại Hà Nội, với đời sống độc thân, do một vết thương quái ác trong chiến tranh, khiến anh không thể cưới vợ, lập gia đình riêng (sđd., tr. 155, 231). Và “hội chứng sau chiến tranh” thực sự bùng phát ngấm ngầm mà dữ dội ở nhân vật này, hẳn vào những năm 80, khoảng mươi năm sau Ngày Thống nhất. Trong Kiên luôn luôn sống dậy những ám ảnh quá khứ, cùng những ấn tượng mới trong những chuyến đi thu nhặt hài cốt tử sĩ trên chiến trường xưa, và những ám ảnh ấy, ấn tượng ấy, còn gồm cả tình yêu thơ mộng, ngọt ngào nhưng cũng rất bất hạnh trước khi nhập ngũ, cũng không thiếu vắng những con người, cảnh huống thô bạo, dung tục, cùng những chết chóc, chém giết tàn bạo, huỷ diệt khủng khiếp của chiến tranh từ hai phía, phía anh cùng đồng đội và phía địch, Mỹ – nguỵ. Xáo lên để trộn vào đó là những gì thuộc về thì hiện tại của anh, một “nhà văn cấp phường” trong khu nhà tập thể thân quen, với Phương, người yêu cũ, với cô gái câm mới dọn đến, với những đồng đội cũ và với cả Hà Nội đang “bung ra”, ấy là thời gian hậu chiến anh đang trải qua nhiều đêm thức trắng để viết lại ám ảnh, ấn tượng đó. Không phải một chiều, “hiện thực phải đạo”, không phải “một nửa sự thật”, Kiên muốn viết cả mặt trái lẫn mặt phải của cuộc chiến, về anh lính giải phóng quân, về lính đối phương…

Và ngay trong những dòng chữ ở đoạn trích bên trên, nhà văn Kiên cũng đã bị áp lực truyền thông chính thống và nhà tù, buộc anh phải “tự rào chắn” lại chính bản thân mình. Anh không dám thừa nhận anh đang khái quát hoá, điển hình hoá, mà cá biệt hoá, chủ quan hoá cuộc chiến tranh. Anh tự cho mình viết một cách phi hiện thực, lầm lạc… Ở những trang khác, nhà văn Kiên còn làm ra vẻ thú nhận là anh đã thực sự có dự tính “phải viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc ấy, viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những cảm xúc chỉ có thể diễn đạt bằng quá khứ. Kiên nghĩ. Mặc dù cố nhiên chiến tranh không hề là như vậy… […] bởi vì thâm tâm muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước” (sđd., tr. 59).

Cũng về thủ pháp “dòng ý thức”, “dòng chảy trạng thái tâm lí tự động” mà Kiên đã bày tỏ ở đoạn trên, một lần nữa, Kiên lại giãi bày rõ hơn, sau khoảng một trăm rưởi trang sách: “Hằng đêm Kiên mất ngủ vì những chuỗi dài giấc mơ kể lại chính cuộc đời anh nhưng bằng những lối kể kỳ lạ. Vô tận những đoạn đời khác biệt, so le nhau hằng năm trời đã đột hiện cùng một lúc, đan xen, lồng vào nhau trên cùng một thời điểm của hồi tưởng, tạo nên trong ký ức của Kiên những vùng không gian mới, những vùng quá khứ chưa từng có…” (sđd., tr. 200). Đó là một sự lắp ghép ngẫu nhiên trong vô thức, tiềm thức và ý thức, y hệt như những mẩu gỗ, mẩu nhựa vuông nhiều màu trong món đồ chơi ru-bích, mà mỗi cái xoay vặn tay là mỗi lần biến hoá, y hệt như những mảnh vụn đa sắc trong ống kính vạn hoa, mà mỗi lần lắc tay là mỗi lần hiển hiện khác nhau, thiên hình vạn trạng.

Với thủ pháp “dòng ý thức”, các nhà văn với các tác phẩm thuộc loại kinh điển của trường phái này trên thế giới, từ rất lâu, đã tin chắc rằng, họ có thể khai quật được những khối quặng dưới lòng đất trong tâm thức con người (nhân vật tiểu thuyết). Còn với Bảo Ninh, anh hẳn tin rằng, nhờ vào đó, anh sẽ tái hiện được toàn vẹn “hai nửa sự thật” của hiện thực chiến tranh, và đồng thời, qua “hội chứng sau chiến tranh” của nhân vật nhà văn Kiên, Bảo Ninh muốn truyền đi một thông điệp phản chiến với nội dung sám hối, lên án chiến tranh, tố giác chiến tranh nói chung là tai hoạ của loài người, bởi lẽ, Kiên đã là một người lính chiến đấu, đến khi thoát ra khỏi cuộc chiến, mới trở thành một nhà văn hậu chiến, thời “bung ra”, chuẩn bị cho công cuộc Đổi mới, khác với những nhà văn trước đó vốn đề cao chiến tranh chống xâm lược, bạo lực cách mạng, đánh đổ xã hội cũ để xây dựng một xã hội mới, tốt đẹp hơn. Nhưng Bảo Ninh còn “cao tay”, “khôn khéo” ở chỗ không những để cho nhân vật Kiên của mình tự khẳng định và tự phủ định những gì đã khẳng định đó, một cách lấp lửng, đúng như trạng thái trăn trở, Bảo Ninh còn viết hẳn một phần cuối (sđd., tr. 277-283), nhằm xác định rằng suốt cả cuốn tiểu thuyết gồm những dòng chữ từ tr. 5 đến tr. 276 là hoàn toàn của nhân vật Kiên. Ở phần cuối này, Bảo Ninh mới thực sự xưng “tôi” để nhận xét, phê phán “nhà văn của phường” có tên là Kiên, dùng một đại từ ngôi thứ ba trung tính hay hơi xem nhẹ một chút là “y”, để chỉ Kiên. Thậm chí, Bảo Ninh còn thực sự “lên gân”, “cao đạo” phê phán nhân vật Kiên đến mức quá đáng, có khía cạnh cố ý sai bét, chẳng hạn như phần hồn của Kiên không bao giờ là ái nam ái nữ như Bảo Ninh phê phán (sđd., tr. 278). Hoặc giả, Bảo Ninh xuất phát từ quan niệm đàn ông phải nam tính hơn, thể hiện bằng sự chủ động, đừng tôn trọng, gìn giữ trinh tiết của bạn tình nữ quá lắm? Nhưng rồi, cuối cùng, Bảo Ninh lại tỏ ra thông cảm, có điểm đồng tình, đồng cảm với “nhà văn phường”, đặc biệt là “nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt lên đau khổ” (sđd., tr. 282), chính nhờ “nỗi buồn chiến tranh” mà những người lính quen tay chém giết sẽ trở nên lương thiện, không còn chai lì với bạo lực, trong cuộc sống hoà bình. Và Bảo Ninh kết lại: “Đấy chắc chắn là điều mà tác giả thực sự của tác phẩm này muốn nói” (sđd., tr. 282). Hơn thế nữa, lập trường, quan điểm của Bảo Ninh (trong vai một cán bộ biên tập) phải được khẳng định rõ, về cuộc chiến tranh: “những ngày mà chúng ta biết rõ vì sao chúng ta cần phải bước vào cuộc chiến tranh, chúng ta cần phải chịu đựng tất cả và hy sinh tất cả: Ngày mà tất cả đều còn rất son trẻ, trong trắng và chân thành” (sđd., tr. 283). Với thủ pháp đó, Bảo Ninh vẫn bảo toàn được bản thân anh, được giải thưởng, không bị treo bút như những nhà văn thời Nhân văn – Giai phẩm.

Những “thủ pháp” của nghề “viết phải lách” ấy không phải qua mắt được tất cả các nhà tuyên huấn chính thống, nhưng tiểu thuyết của Bảo Ninh đã có được một “bối cảnh xuất bản thuận lợi”. Đó là thời điểm mà trước đó khoảng mươi năm, những tác phẩm văn chương thuộc loại “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” đã bị PTS. Hoàng Ngọc Hiến mỉa mai và giễu cợt ngay trên tuần báo Văn Nghệ toàn quốc (1979), lại được công luận bừng tỉnh và đồng tình, tuy trên mặt báo vẫn còn những bài phê phán Hoàng Ngọc Hiến khá nặng nề.

Để viết lên được “hai nửa sự thật” của một cuộc chiến tranh, nhà văn phải luồn lách ngòi bút của mình trước hai luồng thẩm thức, ủng hộ – chê bai, trái ngược nhau, một cách khốn khổ đến thế!

Thực sự sau khi được trao giải Hội Nhà văn Việt Nam 1991, tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh cũng bị “đánh” tơi tả trên báo chí. Thế rồi, dần dà, “Nỗi buồn chiến tranh” lại ít nhiều được khen ngợi, nhất là sau khi được tái bản ở nước ngoài, được dịch ra một số ngữ có nhiều người sử dụng như tiếng Anh, tiếng Pháp… Trong nước, dần dà, dư luận hai chiều cũng bình tâm hơn.

Thật ra, có lẽ nên nói cho công bằng, “hai nửa sự thật” trong sự thật lịch sử còn khủng khiếp hơn, dễ sợ hơn. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh dù sao cũng chỉ chạm đến một phần nào đó của “hai nửa sự thật” chiến tranh ấy. Nhưng vấn đề là ở chỗ không phải dung lượng hiện thực, cũng không phải mức độ khủng khiếp, dễ sợ của “hai nửa sự thật”, mà chính là không còn “một chiều”, không còn “phải đạo”, không còn “tô hồng – bôi đen” một cách cực đoan. Và vấn đề là đã dám sử dụng thủ pháp vốn có từ rất lâu của trường phái “dòng ý thức” trên thế giới.

Tuy nhiên, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh vẫn chưa phản ánh được cái lõi đích thực, bản chất có tính sử học đích thực của cuộc chiến tranh, chẳng hạn như thực chất và vai trò chủ chốt của bộ phận “tả đạo” trong Thiên Chúa giáo, ở Miền Bắc rồi tiếp theo là ở Miền Nam (**), hầu như Bảo Ninh không hề biết đến (vì lí luận tuyên huấn chính thống cũng ngại ngần, không dám đề cập đến một cách rộng khắp)…

Dẫu vậy, khi đọc xong “Nỗi buồn chiến tranh” lần thứ hai, tôi cũng chỉ muốn đề cập đến thủ pháp “dòng ý thức” đã được Bảo Ninh vận dụng thành công trong đó. Tuy nhiên, giá trị của một tiểu thuyết đâu phải chỉ căn cứ vào kĩ thuật! Nếu thêm vào nhận định về ngôn ngữ nội tâm trong cuốn tiểu thuyết, có lẽ không thể không thấy Bảo Ninh đã rất tinh tế, tài hoa, chữ nghĩa có hồn vía, tuy vẫn còn sót vài hạt sạn nhỏ (có thể do tác giả hay do người sắp chữ). Nếu đi sâu vào những hình tượng nhân vật, hẳn có nhiều điều rất đáng ngẫm ngợi hơn.

Trần Xuân An
TP.HCM., 09:40 – 16:25, 31-5 HB11

(*) Bảo Ninh, “Nỗi buồn chiến tranh”, Nxb. Hội Nhà văn, ngày nộp lưu chiểu: 30-9-1992.
(**) Không có ý “vơ đũa cả nắm”, nên đã xác định rõ: bộ phận “tả đạo” trong Thiên Chúa giáo…

(Xin vui lòng xem tiếp)
BÀI ĐÃ ĐƯỢC GỬI ĐĂNG TRÊN BÁO CHÍ:


Đã đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An (01-6 HB11 [2011])

http:// www. vanhoanghean. com. vn /goc-nhin-van-hoa /nhung-goc-nhin-van-hoa /2617- thu-phap- qdong-y-thucq- voi-am-anh-ve-su-that- trong-qnoi-buon-chien-tranhq .html

(01-6 HB11 [2011])

http://trannhuong.com/news_detail/9465/THỦ-PHÁP-“DÒNG-Ý-THỨC”-VỚI-ÁM-ẢNH-VỀ-SỰ-THẬT-TRONG-“NỖI-BUỒN-CHIẾN-TRANH”

http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=12881

LINK các báo, tạp chí, trang thông tin điện tử khác (ở http://www.tranxuanan-writer.net).

Posted in Chưa phân loại | Thẻ: , , | Leave a Comment »