Thông tin: CÁC NHÀ VĂN CHƯƠNG KIẾN NGHỊ HỘI NÊN TỰ TÚC TỰ QUẢN
Posted by Trần Xuân An trên 05.08.2010
Nguyên văn trên Tạp chí điện tử tự lập BauxiteVN:
KIẾN NGHỊ TRÌNH ĐẠI HỘI VIII HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
Hà Nội, ngày 03.8.2010
Để bớt đi một gánh nặng chi phí lớn cho Nhà nước (lấy từ tiền dân đóng thuế), chúng tôi, các nhà văn hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ký tên dưới đây khẩn thiết kiến nghị Đại hội VIII của Hội quyết định dứt khoát rời bỏ cơ chế bao cấp, chuyển từ hội xin tiền Nhà nước lâu nay thành hội tự nuôi tự quản.
Tự thấy đây là kiến nghị rất hợp lòng dân, xin trân trọng nhờ các cơ sở truyền thông công bố rộng rãi để nhân dân biết rõ tâm nguyện của chúng tôi và các hội viên đồng tình với kiến nghị này tiếp tục ký tên nhằm nối dài thêm danh sách.
NHÓM KHỞI XƯỚNG KÝ:
Xem tiếp danh sách với các chữ kí.
____________________________________
Một người đọc quý mến gửi danh sách được gõ bằng chữ vi tính đến:
1. Nguyễn Huệ Chi
2. Lại Nguyên Ân
3. Trần Nhương
4. Trần Thùy Mai
5. Tô Nhuận Vỹ
6. Nguyễn Quang Hà
7. Nguyễn Khắc Phê
8. Hoàng Phủ Ngọc Tường
9. Lâm Thị Mỹ Dạ
10. Bùi Minh Quốc
11. Ngô Minh
12. Võ Văn Trực
13. Võ Thị Hảo
14. Trần Kỳ Trung
15. Dư Thị Hoàn
16. Nguyễn Khắc Thạch
17. Trần Hoài Dương
18. Nguyễn Đắc Xuân
19. Cao Duy Thảo… còn tiếp …
___________________________________________________________
___________________________________________________________
KHÔNG BIẾT CÁC NHÀ VĂN CHƯƠNG CÓ KÍ TÊN TRONG DANH SÁCH ĐÃ BIẾT NHỮNG LỜI VIẾT THÊM CỦA ÔNG NGUYỄN TƯỜNG THỤY, CUỐI DANH SÁCH, ĐĂNG TRÊN TCĐTTL. BAUXITE VN., 06-8-2010, HAY CHƯA BIẾT? TRONG LỜI VIẾT THÊM ẤY, CÓ MỘT Ý TƯỞNG ĐƯỢC DIỄN ĐẠT RẤT RÕ VỚI NỘI DUNG LÀ XÓA BỎ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, CHỈ ĐỀ CAO KHẨU HIỆU “TỔ QUỐC TRÊN HẾT” MÀ THÔI. ĐỌC XONG, TÔI NGHĨ 27 NHÀ VĂN CHƯƠNG NÀY CÓ LẼ ĐÃ CAN ĐẢM BÀY TỎ CHÍNH KIẾN, DÁM THÁCH THỨC CÔNG AN VÀ NHÀ TÙ, ĐỒNG THỜI CŨNG NGỜ LÀ ÔNG NGUYỄN TƯỜNG THỤY ĐÃ XUYÊN TẠC Ý HƯỚNG CỦA 27 NHÀ VĂN CHƯƠNG ẤY.
TÔI VÔ TƯ ĐĂNG LẠI Ở ĐÂY VÀ NÊU CÂU HỎI NHƯ VẬY.
— TXA. —
Hoan nghênh các nhà văn
đề xuất kiến nghị bỏ cơ chế bao cấp
cho Hội Nhà văn
Đăng bởi bvnpost on 06/08/2010
Nguyễn Tường Thụy
Tiếp theo con số 20 người đã ký vào bản Kiến nghị trong ngày 4-8-2010, trong buổi sáng 5-8-2010 có thêm 7 nhà văn sau đây ký tên:
20. Thanh Thảo
21. Trần Công Tấn
22. Hoàng Tiến
23. Nguyễn Quang Lập
24. Nguyễn Vũ Lệ Hà
25. Lê Vân
26. Trần Ninh Hồ
Lập danh sách: Bauxite Việt Nam
Những nhà văn ký tên vào Bản kiến nghị trình Đại hội VIII Hội Nhà văn Việt Nam ngay ngày khai mạc đã làm một việc cao cả: Yêu cầu Đại hội VIII của Hội quyết định dứt khoát rời bỏ cơ chế bao cấp, chuyển từ hội xin tiền Nhà nước lâu nay thành hội tự nuôi tự quản nhằm giảm đóng góp của dân.
Tôi tin rằng Bản kiến nghị không có điều kiện để lấy hết chữ ký vì theo dõi tin tức thấy buổi sáng họp Trưởng đoàn nhà văn các khu vực, các hội viên còn lại đọc tài liệu ở nhiều nơi nhiều chỗ. Buổi chiều thì hội nghị các nhà văn đảng viên, các nhà văn ngoài đảng không biết làm gì nên chắc tản mạn mỗi nhóm một chỗ.
Tôi không rõ mỗi năm kinh phí cấp cho Hội Nhà văn cụ thể là bao nhiêu, hình như vài chục tỷ gì đó. Vài chục tỷ, chỉ bằng số tiền tham ô của một quan tham cỡ thường thường bậc trung mà sao có vẻ nghiêm trọng vậy! Một tỷ lệ qua nhỏ nhoi, bằng chừng phần vạn ngân sách Nhà nước nhưng đấy là cái tát vào mặt bọn tham nhũng nhung nhúc khắp nơi, khắp các bộ phận của bộ máy điều hành, quản lý xã hội.
Mặt khác, hơn ai hết, các nhà văn là những người yêu tự do. Họ không muốn để đồng tiền sai khiến, làm họ phải đắn đo mỗi khi cầm bút. Tại một đại hội, việc thảo luận về tính chất của Hội “là tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp” hay “là tổ chức xã hội – nghề nghiệp” cũng là chuyện đau đầu. Vấn đề này cũng có ràng buộc. Nếu bỏ chữ “chính trị” đi thì không được cấp kinh phí hoạt động. Cuối cùng vì đồng tiền mà phải thêm chữ “chính trị” vào. Tờ báo Văn nghệ vẫn phải để dòng chữ “Vì chủ nghĩa xã hội” ở măng-set, cái chủ nghĩa có thể hô hào ngoài miệng nhưng chẳng có ai tin kể cả những người cổ xúy cho nó. Bao giờ thì thay được dòng chữ ấy bằng “Tổ quốc trên hết”? Hẳn điều này đã làm nhức nhối lương tâm của nhiều nhà văn. Riêng tôi thì nghĩ: một tác phẩm văn học nghệ thuật không thể nằm ngoài chính trị nhưng làm nghệ thuật không phải là làm chính trị.
Mừng thay còn nhiều nhà văn vẫn còn chất kẻ sĩ. Chúc cho Kiến nghị của các anh, chị được Đại hội thảo luận và nhất trí thông qua.
NTT
HO Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Đường dẫn lúc 7:41′, ngày 06-8-2010. Bấm vào để xem
VUI LÒNG ĐỌC BÀI THƠ CÓ CÂU “GỠ LỐI ‘BAO’ XƯA, NGƯỜI MỌC CÁNH” CỦA TỐ HỮU Ở PHẦN BÀN LUẬN (COMMENTS)
ĐÍNH CHÍNH & CÂP NHẬT BỔ SUNG:
Trong danh sách 20 nhà văn chương khởi xướng (đợt 1), sót tên họ dịch giả Đoàn Tử Huyến, và lầm danh tính Trịnh Hoài Giang thành Trần Hoài Dương. Thay mặt ông (bà) Cốc Tùng (người gửi danh sách đến), xin cáo lỗi cùng những vị có tên kể trên.
Cũng theo thông tin mới nhất do ông (bà) Cốc Tùng cung cấp, trong danh sách đợt 2, đã có thêm danh tính nhà thơ Thái Thăng Long.
Như vậy, đến hôm nay, 17-8-2010, tổng cộng cả hai danh sách là 28 vị.
WebTXA. sẽ không cập nhật bổ sung tiếp. Xin quý người đọc xem tiếp trên Tạp chí điện tử tự lập Bauxite VN. hay ở “Google tìm kiếm”.
TÂM NGUYỆN TỐT, PHÁP LUẬT MỞ, THÀNH CÔNG ĐẸP!
Trân trọng,
TXA.
Nguyễn Ý Kiến said
ÔNG (BÀ) NGUYỄN Ý KIẾN:
Tôi nhận thấy kiến nghị trên rất khó được chấp thuận…
Tôi xin đưa ra ý kiến của bản thân: ĐỀ NGHỊ CÁC VỊ CÓ TÊN (VÀ SẼ CÓ TÊN) TRONG DANH SÁCH TRÊN NÊN KIẾN NGHỊ ĐỒNG THỜI VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP MỘT HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM TỰ LẬP, SONG HÀNH VỚI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM TRỰC THUỘC NHÀ NƯỚC HIỆN HÀNH.
Ng.Y.K.
(Quận 2, TP.HCM)
txa. said
TXA. vô tư đăng tải các ý kiến của các nhà văn chương (trong & ngoài các hội nhà văn) cùng quý người đọc quý mến.
Nhân đây, cũng xin cảm ơn ông (bà) Cốc Tùng đã gửi danh sách trên, đã được gõ phím vi tính, đến điểm mạng này.
Trân trọng,
TXA.
Huỳnh Nguồn Cội said
Tôi đề nghị nên thực hiện cơ chế hai hội nhà văn Việt Nam song hành (tạm gọi là cánh-hữu-thân-nhà-nước và cánh-tả-thân-dân), độc lập với nhau về điều lệ cũng như các mặt khác, kể cả ban chấp hành, ban tổ chức hội viên, nhưng mỗi lần đại hội tòan thể thì ngồi cùng nhau trong một hội trường với hai bục diễn giả.
Huỳnh Nguồn Cội
(Bình Chánh, TP.HCM)
Huỳnh Nguồn Cội said
Không biết vì sao đến giờ phút này các nhà văn chương trong danh sách trên mới đưa ra kiến nghị này? Chắc hẳn đó là ý kiến sửa đổi điều lệ Hội Nhà văn Việt Nam: Hội Nhà văn Việt Nam là một hội nghề nghiệp tự túc, tự quản. Nội dung kiến nghị của các vị ấy chỉ vỏn vẹn như thế mà thôi.
Huỳnh Nguồn Cội
(Bình Chánh, TP.HCM)
Nguyễn Ý Kiến said
Vâng, thưa ông, “nội dung kiến nghị của các vị ấy chỉ vỏn vẹn như thế mà thôi” nhưng lại là một vấn đề rất to tát. Tôi tin chắc là KHÔNG THỂ được chấp thuận…
Ng.Y.K.
Nguyễn Ý Kiến said
VÔ TƯ, VÔ TƯ & VÔ TƯ
Nguyễn Ý Kiến said
THƠ PHÊ PHÁN BAO CẤP: ĐÊM CUỐI NĂM – Tố Hữu
THƠ PHÊ PHÁN BAO CẤP
ĐÊM CUỐI NĂM
Tố Hữu
Đêm cuối năm. Riêng một ngọn đèn
Dở hay, khôn dại những chê khen
“Làm, ăn”, hai chữ, quen mà lạ
Thế cuộc, nhân tình, rõ trắng đen!
Gỡ lối “bao” xưa, người mọc cánh
Được mùa “khoán” mới, đất lên men
Tự cường mới biết ai gan góc
Luồn lọt hay chi phận yếu hèn!
Cách mạng, mừng thêm vai gánh vác
Hư danh, chừng bớt kẻ đua chen (*)
Dòng đời cứ chảy, tan bèo bọt
Thế trận lòng dân dậy tiếng kèn!
31-12-1981
Tố Hữu
______________
(*) ???
THƠ PHÊ PHÁN BAO CẤP
Ngo Thu Le said
Thành lập thêm một hội khác ? Mấy bác nầy to gan quá. Đa hội để mở đường cho đa đảng à ? Bay đâu, chặt chém ngay !
TXA. said
Cảm ơn nhà giáo Ngô Thủ Lễ đã có ý kiến.
Trước hết, xin xác định lại là TXA. chỉ đăng lại thông tin mà thôi, chứ không muốn có ý kiến gì về vấn đề này.
Tuy vậy, cũng bàn thêm vài lời.
Theo mình nghĩ, vấn đề căn bản là Hiến pháp. Một hay hai hội nhà văn toàn quốc (theo từ ngữ của Ngô Thủ Lễ là “đa hội”) thì vẫn phải tuân thủ Hiến pháp mà thôi. Do đó, không có gì phải ngại rằng từ “đa hội” sẽ phát triển thành “đa đảng”. Theo Hiến pháp Nước CHXHCN. Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, nói rõ hơn, nếu có hai hội nhà văn toàn quốc (“đa hội”), với hai phương thức hoạt động và hai điều lệ khác nhau, thì vẫn phải chấp hành Hiến pháp hiện hành.
Về văn bản triển khai Hiến pháp? Ấy là Bộ Luật về các hội nghề nghiệp. Bộ luật này tất nhiên không mâu thuẫn với Hiến pháp.
Vì vậy, độc hội nhà văn toàn quốc hay đa hội nhà văn toàn quốc thì vẫn “sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật”.
Không có gì là sai trái, vi phạm hiến pháp và vi phạm pháp luật trong việc kiến nghị và vận động lập thêm một hội nhà văn Việt Nam thứ hai cả.
Thành thật cảm ơn nhà giáo Ngô Thủ Lễ một lần nữa.
Trân trọng & quý mến,
TXA.
Người đọc báo said
SẮC LỆNH DƯỚI ĐÂY ĐÃ HẾT HIỆU LỰC
SẮC LỆNH
LUẬT SỐ 102-SL/L-004 NGÀY 20-5-1957 QUY ĐỊNH QUYỀN LẬP HỘI
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
RA SẮC LỆNH :
Nay ban bố luật quy định quyền lập hội đã được Quốc hội biểu quyết trong khoá họp thứ VI như sau:
LUẬT QUY ĐỊNH QUYỀN LẬP HỘI
Điều 1.
Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta.
Điều 2.
Mọi người đều có quyền lập hội, trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp luật.
Mọi người có quyền tự do vào hội thành lập hợp pháp, và có quyền tự do ra hội.
Không ai được xâm phạm quyền lập hội và quyền tự do vào hội, ra hội của người khác.
Điều 3.
Để bảo đảm việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân, lập hội phải xin phép.
Thể lệ lập hội sẽ do Chính phủ quy định.
Điều 4.
Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.
Điều 5.
Hội thành lập hợp pháp phải hoạt động theo đúng điều lệ của hội và theo đúng các luật lệ hiện hành, được phép thu hội phí của hội viên, mua bán đổi chác tài sản cần thiết cho sự hoạt động của hội và thưa kiện trước toà án.
Những người chịu trách nhiệm chính của hội, tuỳ trường hợp, là những người sáng lập hay là những uỷ viên ban chấp hành của hội.
Điều 6.
Nếu vi phạm những điều 3, 4 và 5 trên đây thì tuỳ theo trường hợp nặng nhẹ, những người có trách nhiệm sẽ bị cảnh cáo hay là bị truy tố trước toà án, và hội có thể bị giải tán, tài sản của hội có thể bị tịch thu.
Trường hợp bị truy tố trước toà án, những người có trách nhiệm sẽ bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến năm mươi vạn đồng (500.000 đ) và phạt tù từ một tháng đến một năm, hoặc một trong hai hình phạt ấy.
Trường hợp hội đã bị giải tán mà vẫn cứ tiếp tục hoạt động hoặc tổ chức lại một cách không hợp pháp, thì những người có trách nhiệm sẽ bị truy tố trước toà án và sẽ bị xử phạt tiền từ hai mươi vạn đồng (200.000 đ) đến một triệu đồng (1.000.000 đ) và phạt tù từ một tháng đến hai năm, hoặc một trong hai hình phạt ấy, hội sẽ bị giải tán, tài sản của hội sẽ bị tịch thu.
Điều 7.
Người nào xâm phạm đến quyền lập hội hoặc đến quyền tự do vào hội, ra hội của người khác có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và bị xử phạt tù từ một tháng đến một năm.
Điều 8.
Người nào lợi dụng quyền lập hội để hoạt động nguy hại đến lợi ích nước nhà, lợi ích nhân dân như là chống pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ nhân dân, chia rẽ dân tộc, hại đến thuần phong mỹ tục, phá hoại sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Tổ quốc, phá tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, sẽ bị truy tố trước toà án và xử phạt theo luật pháp hiện hành, hội có thể bị giải tán và tài sản của hội có thể bị tịch thu.
Điều 9.
Các đoàn thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm vi quy định của luật này.
Điều 10.
Các hội có mục đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này.
Điều 11.
Tất cả luật lệ nào trái với luật này đều bãi bỏ.
Điều 12.
Chính phủ quy định những chi tiết thi hành luật này.
Nguồn: http: //www. eluat. com/57000012.htm
______________________________________________________
Thứ Hai, 30/03/2009, 10:35 (GMT+7)
LẬP HỘI, ĐÂU CẦN THIẾT PHẢI XIN – CHO
Nghị định mới thay thế Nghị định 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức hoạt động và quản lý hội đang được Bộ Nội vụ lấy ý kiến để trình Chính phủ ban hành. Pháp Luật TP.HCM trò chuyện với TS Hoàng Ngọc Giao về vấn đề này.
Xã hội dân sự mạnh thì nhà nước mạnh
* Thưa ông, việc lập hội là quyền hiến định rất rõ ràng. QH khóa I cũng đã ban hành luật (20-5-1957, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh ban hành Luật Quy định quyền lập hội với 12 điều). Tại sao sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta vẫn cứ loay hoay với dự định về một đạo luật về hội?
– TS Hoàng Ngọc Giao: Luật Quy định quyền lập hội năm 1957 đã thể chế hóa được quy định của Hiến pháp 1946. Sở dĩ chúng ta chưa thực hiện được nhiều là do luật ra đời trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh và trong suốt thời kỳ ta thực hiện mô hình tập trung quan liêu bao cấp về kinh tế thì cũng thực hiện bao cấp về xã hội.
Cuộc đổi mới với sự ra đời của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là sự trỗi dậy của khu vực tư nhân làm xã hội biến đổi sâu sắc với nhiều thực thể xã hội mới ra đời. Dự định làm một đạo luật mới về hội đã được đặt ra từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước nhưng đến nay Quốc hội vẫn chưa thông qua được. Theo quan điểm của tôi thì trước hết nó nằm ở quyết tâm chính trị và nhận thức về vai trò của xã hội dân sự.
Đáng tiếc là không phải ai cũng nhận thức được rằng sự phát triển của xã hội dân sự rất tốt, nó bổ sung cho những việc, những khu vực mà nhà nước không làm được. Ví dụ từ kinh tế, thời bao cấp nhà nước làm hết, cho đến từng cái tăm cũng phân phối. Nhưng khi kinh tế thị trường mở ra thì những việc nhỏ, những nhu cầu hàng hóa như vậy, cá thể kinh doanh người ta làm tốt hơn nhà nước rất nhiều, để nhà nước tập trung làm tốt hơn những việc lớn như dầu khí, điện, đường… Trong xã hội cũng vậy, nhiều lĩnh vực nhà nước không bao hết được, nhất là các dịch vụ công, vậy thì nên chia sẻ với các tổ chức xã hội.
* Phải chăng có sự lo lắng rằng các tổ chức xã hội lớn lên, mạnh lên thì nhà nước nhỏ đi, yếu đi?
– Theo tôi, cách tiếp cận đó không đi vào bản chất của vấn đề. Trong một xã hội phát triển thì nhà nước và xã hội dân sự phải là hai thiết chế đồng hành, bổ sung và kiềm chế lẫn nhau. Xã hội dân sự còn có chức năng phản biện chính sách, giám sát công việc của nhà nước giúp nó minh bạch và hiệu quả. Đồng thời nó tác động vào khu vực tư nhân, làm cho khu vực này phát triển hài hòa trên cơ sở định ra các quy chuẩn, chuẩn mực nghề nghiệp, đạo đức. Sự tương tác hài hòa giữa ba trụ cột: nhà nước – xã hội dân sự – khu vực tư nhân sẽ giúp xã hội phát triển bền vững.
Nhìn vào các nước phát triển như Tây Âu, ta thấy xã hội dân sự phát triển rất mạnh, nhà nước cũng dựa vào đó để thực hiện chính sách của mình và nhà nước cũng vẫn rất mạnh. Doanh nghiệp ở đó cũng phải vận hành trên cơ sở quy chuẩn, đạo đức chung của xã hội, họ không thể chỉ vì đồng tiền mà bỏ qua điều đó.
Dự thảo mới khá cởi mở
* Dự thảo nghị định mới nhất đem lại tín hiệu nào đáng mừng hơn so với Nghị định 2003, thưa ông?
– Dự thảo đã phản ánh được một số nhu cầu mới của giai đoạn tiếp theo của quá trình mở cửa. Ví dụ như quy định các bộ, ngành phải ban hành cơ chế chuyển giao dần những việc không thuộc chức năng quản lý nhà nước, đặc biệt là các dịch vụ công cho các tổ chức xã hội. Nghị định đã trao cho các hội quyền tư vấn, nghiên cứu, giám định, phản biện. Thứ hai là quyền cấp các chứng chỉ dịch vụ công. Chẳng hạn như việc kiểm định ôtô, xe máy chẳng hạn thì cần gì cơ quan nhà nước làm.
Điểm đáng hoan nghênh nữa là dự thảo trao quyền cho UBND huyện trong việc giải quyết đề nghị thành lập hội, sát nhập, giải thể, chia tách cho các hội hoạt động trong phạm vi xã.
Dự thảo lần này cũng tiến bộ khi đưa ra quy định nghĩa vụ của hội phải xây dựng bộ quy tắc ứng xử. Quy tắc ứng xử trong xã hội dân sự rất quan trọng. Nó có thể là quy tắc nghề nghiệp, có thể là đạo đức trong một lĩnh vực nào đó. Chẳng hạn như câu chuyện về bánh phở, nếu các hội phát triển tốt thì khi có hiện tượng formol trong bánh phở, nhà nước không cần can thiệp, vì sẽ có hiệp hội những người làm bánh phở xây dựng bộ quy tắc về chất lượng mặt hàng. Khi một thành viên vi phạm thì hội sẽ xử lý trước tiên chứ không cần 24/24 giờ có thanh tra của cơ quan nhà nước làm việc này. Nhà nước có ngàn tay, ngàn mắt cũng không làm hết được những việc cụ thể như thế.
Nhưng đừng buộc xin-cho
* Nhưng dự thảo nghị định có nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng tình, chẳng hạn như trao cho bộ trưởng Bộ Nội vụ quyền quy định cụ thể điều kiện trở thành hội; Điều 7 quy định hồ sơ thành lập hội phải có đơn xin phép…, ông thấy thế nào?
– Nghị định 88 từng trao quyền lập quy này cho Bộ Nội vụ, sau đó bộ này ra thông tư quy định rất khắt khe, thiếu thực tế, ví dụ như phải có đủ bao nhiêu hội viên thì mới lập được hội. Ở một địa phương họ phản ánh rằng chỉ có 19 người mù và không thể tìm đâu thêm một người nữa để có thể lập hội. Hoặc ở một tỉnh có 10 ông chuyên gia khảo cổ rất giỏi nhưng họ cũng không lập được hội vì thiếu người… Quốc hội ta cũng đang cố gắng hạn chế tối đa quy định ủy quyền lập quy trong luật. Tôi cho rằng nghị định có thể quy định rõ điều kiện để lập hội chứ không cần phải ủy quyền cho ông bộ trưởng làm việc này.
Cần nhận thức: Đây là quyền hiến định
Bất cập của dự thảo còn nằm ở quy định ban vận động thành lập hội phải do bộ, ngành quản lý công nhận. Tại sao thế? Tôi đang đi vận động thì công nhận làm gì? Hơn nữa, nếu quy định phải có quyết định công nhận của bộ, ngành thuộc lĩnh vực đó thì những hội hoạt động đa lĩnh vực thì sao? Chẳng hạn hội chăm sóc sức khỏe những người bị HIV thì xin Bộ Y tế hay Bộ LĐ-TB&XH; hoặc là hội bảo vệ động vật hoang dã thì xin Bộ NN&PTNT hay Bộ Tài nguyên và Môi trường?
Một điều nữa là nhận thức, nó chỉ liên quan đến hai từ thôi: “Xin phép”! Doanh nghiệp thì chỉ cần đăng ký, nếu đủ điều kiện thì nhà nước công nhận, cấp giấy phép cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thì tại sao tổ chức xã hội muốn hoạt động lại phải đi xin phép? Hiến pháp ghi đây là một quyền rồi, mà đã là quyền hiến định thì nó là quyền tự nhiên chứ! Nhà nước làm ra pháp luật, đặt ra những điều cấm, quy định điều kiện để lập hội, khi đó người ta đi đăng ký với nhà nước, nếu đủ điều kiện thì nhà nước công nhận, không đủ điều kiện thì thôi, chứ đâu phải chuyện xin hay cho.
* Xin cảm ơn ông.
Theo LÊ KIÊN – Pháp luật TP.HCM
& http:// tuoitre. vn/ Chinh-tri-xa-hoi/ Phap-luat /308714/ Lap-hoi- Dau-can-thiet- phai-xin-cho. html
Nguyễn Ý Kiến said
Biết là luật pháp nước ta hiện nay còn những hạn chế, những chậm trễ đáng tiếc, đáng trách, đáng giận như vậy, nhưng nếu muốn lập hội thì phải đấu tranh, đấu tranh trong khuôn khổ Hiến pháp, buộc Quốc hội phải thông qua Luật lập hội, buộc Chính phủ phải ra quy định để mọi công dân biết và thực thi quyền của mình, chứ không nên “ngồi chờ sung rụng”.
Tôi hoan hô và ủng hộ các nhà văn chương có ý định đấu tranh trong khuôn khổ Hiến pháp để lập hội mới, song hành với hội hiện hành.
Ng.Y.K.
_________________________________
Ghi chú: TXA. chỉ đăng ý kiến của các nhà văn chương trong và ngoài Hội, của quý người đọc gửi đến, chứ không có ý kiến gì.
Người đọc said
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Chính phủ
Số 45/2010/NĐ-CP
Hà Nội, ngày 21 tháng 04 năm 2010
NGHị ĐịNH
Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
CHíNH PHủ
Căn cứ Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20 tháng 5 năm 1957 ban hành Luật quy định quyền lập hội;
Căn cứ Bộ Luật Dân sự ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ,
NGHị ĐịNH
Chương i
NHữNG QUY ĐịNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Nghị định này quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với hội.
2. Nghị định này không áp dụng với các tổ chức:
a) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
b) Các tổ chức giáo hội.
Điều 2. Hội
1. Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
2. Hội có các tên gọi khác nhau: hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội).
3. Phạm vi hoạt động của hội (theo lãnh thổ) gồm:
a) Hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh;
b) Hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là tỉnh);
c) Hội có phạm vi hoạt động trong huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là huyện);
d) Hội có phạm vi hoạt động trong xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã).
Điều 3. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội
Tổ chức, hoạt động của hội được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
1. Tự nguyện; tự quản;
2. Dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch;
3. Tự bảo đảm kinh phí hoạt động;
4. Không vì mục đích lợi nhuận;
5. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ hội.
Điều 4. Tên, biểu tượng, trụ sở, con dấu và tài khoản của hội
1. Tên của hội được viết bằng tiếng Việt, có thể được phiên âm, dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài; tên, biểu tượng của hội không được trùng lặp, gây nhầm lẫn với tên của hội khác đã được thành lập hợp pháp; không vi phạm đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa dân tộc.
2. Hội có tư cách pháp nhân, trụ sở, con dấu, tài khoản và có thể có biểu tượng riêng. Trụ sở chính của hội đặt tại Việt Nam.
Chương ii
ĐIềU KIệN, THủ TụC THàNH LậP HộI
Điều 5. Điều kiện thành lập hội
1. Có mục đích hoạt động không trái với pháp luật; không trùng lặp về tên gọi và lĩnh vực hoạt động chính với hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trên cùng địa bàn lãnh thổ.
2. Có điều lệ;
3. Có trụ sở;
4. Có số lượng công dân, tổ chức Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội:
a) Hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh có ít nhất một trăm công dân, tổ chức ở nhiều tỉnh có đủ điều kiện, tự nguyện, có đơn đăng ký tham gia thành lập hội;
b) Hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh có ít nhất năm mươi công dân, tổ chức trong tỉnh có đủ điều kiện, tự nguyện, có đơn đăng ký tham gia thành lập hội;
c) Hội có phạm vi hoạt động trong huyện có ít nhất hai mươi công dân, tổ chức trong huyện có đủ điều kiện, tự nguyện, có đơn đăng ký tham gia thành lập hội;
d) Hội có phạm vi hoạt động trong xã có ít nhất mười công dân, tổ chức trong xã có đủ điều kiện, tự nguyện, có đơn đăng ký tham gia thành lập hội;
đ) Hiệp hội của các tổ chức kinh tế có hội viên là đại diện các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân của Việt Nam, có phạm vi hoạt động cả nước có ít nhất mười một đại diện pháp nhân ở nhiều tỉnh; hiệp hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh có ít nhất năm đại diện pháp nhân trong tỉnh cùng ngành nghề hoặc cùng lĩnh vực hoạt động có đủ điều kiện, tự nguyện, có đơn đăng ký thanh gia thành lập hiệp hội.
Đối với hội nghề nghiệp có tính đặc thù chuyên môn, số lượng công dân và tổ chức tự nguyện đăng ký tham gia thành lập hội do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này xem xét quyết định từng trường hợp cụ thể.
Điều 6. Ban vận động thành lập hội
1. Muốn thành lập hội, những người sáng lập phải thành lập ban vận động thành lập hội. Ban vận động thành lập hội được cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động công nhận.
2. Người đứng đầu ban vận động thành lập hội là công dân Việt Nam, sống thường trú tại Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có sức khoẻ và có uy tín trong lĩnh vực hội dự kiến hoạt động.
3. Số thành viên trong ban vận động thành lập hội được quy định như sau:
a) Hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh có ít nhất mười thành viên;
b) Hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh, có ít nhất năm thành viên;
c) Hội có phạm vi hoạt động trong huyện, xã, có ít nhất ba thành viên;
d) Hiệp hội của các tổ chức kinh tế có phạm vi hoạt động cả nước có ít nhất năm thành viên đại diện cho các tổ chức kinh tế; đối với hiệp hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh có ít nhất ba thành viên đại diện cho các tổ chức kinh tế trong tỉnh.
4. Hồ sơ đề nghị công nhận ban vận động thành lập hội lập thành hai bộ, hồ sơ gồm:
a) Đơn xin công nhận ban vận động thành lập hội, trong đơn nêu rõ tên hội, tôn chỉ, mục đích của hội, lĩnh vực mà hội dự kiến hoạt động, phạm vi hoạt động, dự kiến thời gian trù bị thành lập hội và nơi tạm thời làm địa điểm hội họp;
b) Danh sách và trích ngang của những người dự kiến trong ban vận động thành lập hội: họ, tên; ngày, tháng, năm sinh; trú quán; trình độ văn hóa; trình độ chuyên môn.
5. Công nhận ban vận động thành lập hội:
a) Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động quyết định công nhận ban vận động thành lập hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh;
b) Sở quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội dự kiến hoạt động quyết định công nhận ban vận động thành lập hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh;
c) Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện) quyết định công nhận ban vận động thành lập hội có phạm vi hoạt động trong huyện, xã.
Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) ủy quyền cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất, giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt động trong xã, thì phòng chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định công nhận ban vận động thành lập hội có phạm vi hoạt động trong xã;
d) Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, hợp pháp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại các điểm a, b và c khoản 5 Điều này có trách nhiệm xem xét, quyết định công nhận ban vận động thành lập hội; trường hợp không đồng ý phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
6. Nhiệm vụ của ban vận động thành lập hội sau khi được công nhận:
a) Vận động công dân, tổ chức đăng ký tham gia hội;
b) Hoàn chỉnh hồ sơ xin phép thành lập hội theo quy định tại Điều 7 của Nghị định này. Sau khi đã hoàn tất việc trù bị thành lập hội, ban vận động thành lập hội lập thành hai bộ hồ sơ gửi đến: Bộ Nội vụ đối với hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh; Sở Nội vụ đối với hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh, huyện, xã; Phòng Nội vụ (trong trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện thành lập hội có phạm vi hoạt động trong xã).
Ban vận động thành lập hội tự giải thể khi đại hội bầu ra ban lãnh đạo của hội.
Điều 7. Hồ sơ xin phép thành lập hội
1. Đơn xin phép thành lập hội.
2. Dự thảo điều lệ.
3. Dự kiến phương hướng hoạt động.
4. Danh sách những người trong ban vận động thành lập hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
5. Lý lịch tư pháp người đứng đầu ban vận động thành lập hội.
6. Văn bản xác nhận nơi dự kiến đặt trụ sở của hội.
7. Bản kê khai tài sản do các sáng lập viên tự nguyện đóng góp (nếu có).
Điều 8. Nội dung chính của Điều lệ hội
1. Tên gọi của hội.
2. Tôn chỉ, mục đích, lĩnh vực và phạm vi hoạt động của hội.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của hội.
4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội.
5. Thể thức vào hội, ra hội, thẩm quyền kết nạp, khai trừ hội viên.
6. Tiêu chuẩn hội viên.
7. Quyền, nghĩa vụ của hội viên.
8. Cơ cấu, tổ chức, thể thức bầu và miễn nhiệm; nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra, các chức vụ lãnh đạo khác của hội; nguyên tắc, hình thức biểu quyết.
9. Tài sản, tài chính và phương thức quản lý tài sản, tài chính của hội.
10. Điều kiện giải thể và thanh quyết toán tài sản, tài chính.
11. Khen thưởng, kỷ luật; khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong nội bộ hội.
12. Thể thức sửa đổi, bổ sung điều lệ.
13. Hiệu lực thi hành.
Điều 9. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hội khi nhận hồ sơ xin phép thành lập hội
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này khi nhận hồ sơ xin phép thành lập hội phải có giấy biên nhận. Trong thời hạn sáu mươi ngày kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, hợp pháp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, quyết định cho phép thành lập hội; trường hợp không đồng ý phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
Điều 10. Thời gian tiến hành đại hội thành lập hội
1. Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày quyết định cho phép thành lập hội có hiệu lực, ban vận động thành lập hội phải tổ chức đại hội.
2. Nếu quá thời hạn trên không tổ chức đại hội, thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày hết thời hạn tổ chức đại hội theo quy định tại khoản 1 Điều này, ban vận động thành lập hội có văn bản gửi cơ quan nhà nước đã quyết định cho phép thành lập hội đề nghị gia hạn. Thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày, nếu quá thời gian được gia hạn mà không tổ chức đại hội thì quyết định cho phép thành lập hội hết hiệu lực.
Điều 11. Nội dung chủ yếu trong đại hội thành lập hội
1. Công bố quyết định cho phép thành lập hội.
2. Thảo luận và biểu quyết điều lệ.
3. Bầu ban lãnh đạo và ban kiểm tra.
4. Thông qua chương trình hoạt động của hội.
5. Thông qua nghị quyết đại hội.
Điều 12. Báo cáo kết quả đại hội
Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày đại hội, ban lãnh đạo hội gửi tài liệu đại hội đến cơ quan nhà nước đã quyết định cho phép thành lập hội, gồm:
1. Điều lệ và biên bản thông qua điều lệ hội;
2. Biên bản bầu ban lãnh đạo, ban kiểm tra (có danh sách kèm theo) và lý lịch người đứng đầu hội;
3. Chương trình hoạt động của hội;
4. Nghị quyết đại hội.
Điều 13. Phê duyệt điều lệ hội và hiệu lực của điều lệ hội
1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này quyết định phê duyệt điều lệ hội khi điều lệ hội đã được đại hội thông qua. Trường hợp quy định của điều lệ hội trái với pháp luật thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối phê duyệt và yêu cầu hội sửa đổi.
2. Điều lệ hội có hiệu lực kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định phê duyệt.
Điều 14. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể, đổi tên và phê duyệt điều lệ hội
1. Bộ trưởng Bộ Nội vụ cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh, trừ trường hợp luật, pháp lệnh có quy định khác.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh. Căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt động trong xã.
Chương iii
HộI VIÊN
Điều 15. Hội viên của hội
Hội viên của hội gồm hội viên chính thức, hội viên liên kết và hội viên danh dự.
Điều 16. Hội viên chính thức
1. Công dân, tổ chức Việt Nam tán thành điều lệ hội, tự nguyện gia nhập hội, có đủ tiêu chuẩn hội viên theo quy định của điều lệ hội có thể trở thành hội viên chính thức của hội.
2. Thẩm quyền và thủ tục kết nạp hội viên do điều lệ hội quy định.
Điều 17. Hội viên liên kết và hội viên danh dự
1. Các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (sau đây gọi chung là doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài) hoạt động tại Việt Nam, có đóng góp cho sự phát triển của hiệp hội, tán thành điều lệ hiệp hội, thì được hiệp hội của các tổ chức kinh tế xem xét, công nhận là hội viên liên kết.
2. Công dân, tổ chức Việt Nam không có điều kiện hoặc không có đủ tiêu chuẩn trở thành hội viên chính thức của hội, tán thành điều lệ hội, tự nguyện xin vào hội, được hội công nhận là hội viên liên kết hoặc hội viên danh dự.
3. Hội viên liên kết, hội viên danh dự được hưởng quyền và nghĩa vụ như hội viên chính thức của hội, trừ quyền biểu quyết các vấn đề của hội và không được bầu cử, ứng cử vào ban lãnh đạo, ban kiểm tra hội.
4. Thủ tục kết nạp, quyền, nghĩa vụ của hội viên liên kết, hội viên danh dự do điều lệ hội quy định.
Điều 18. Quyền và nghĩa vụ của hội viên
Quyền và nghĩa vụ của hội viên do điều lệ hội quy định.
Chương iv
Tổ CHứC, HOạT ĐộNG, QUYềN Và NGHĩA Vụ CủA HộI
Điều 19. Cơ cấu tổ chức của hội
Cơ cấu tổ chức của hội gồm:
1. Đại hội;
2. Ban lãnh đạo;
3. Ban kiểm tra;
4. Các tổ chức khác do điều lệ hội quy định.
Điều 20. Đại hội nhiệm kỳ và đại hội bất thường
1. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của hội là đại hội nhiệm kỳ hoặc đại hội bất thường.
2. Đại hội nhiệm kỳ hoặc đại hội bất thường được tổ chức dưới hình thức đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu. Đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu chỉ được tổ chức khi có trên 1/2 (một phần hai) số hội viên chính thức hoặc có trên 1/2 (một phần hai) số đại biểu chính thức có mặt.
3. Nhiệm kỳ đại hội do điều lệ hội quy định nhưng không quá năm năm kể từ ngày kết thúc đại hội nhiệm kỳ trước.
Trong thời gian mười hai tháng kể từ ngày hết nhiệm kỳ đại hội, nếu hội không tiến hành đại hội, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này có văn bản yêu cầu hội tổ chức đại hội. Trong thời gian sáu tháng kể từ khi nhận được văn bản yêu cầu tổ chức đại hội mà lãnh đạo hội không tổ chức đại hội thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này xem xét, quyết định xử lý.
4. Đại hội bất thường được triệu tập khi ít nhất có 2/3 (hai phần ba) tổng số ủy viên ban lãnh đạo hoặc có ít nhất 1/2 (một phần hai) tổng số hội viên chính thức đề nghị.
Điều 21. Nội dung chủ yếu quyết định tại đại hội
1. Phương hướng hoạt động của hội
2. Bầu ban lãnh đạo, ban kiểm tra hội.
3. Đổi tên hội, sửa đổi, bổ sung điều lệ (nếu có).
4. Gia nhập liên hiệp các hội cùng lĩnh vực hoạt động.
5. Chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể hội.
6. Tài chính của hội.
7. Các vấn đề khác theo quy định của điều lệ hội.
Điều 22. Nguyên tắc biểu quyết tại đại hội
1. Đại hội có thể biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Việc quy định hình thức biểu quyết do đại hội quyết định.
2. Việc biểu quyết thông qua các quyết định của đại hội phải được quá 1/2 (một phần hai) đại biểu chính thức có mặt tán thành.
Điều 23. Quyền của hội
1. Tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội đã được phê duyệt.
2. Tuyên truyền mục đích của hội.
3. Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hội.
4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của hội.
5. Tổ chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; hòa giải tranh chấp trong nội bộ hội.
6. Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật.
7. Tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội theo đề nghị của cơ quan nhà nước; cung cấp dịch vụ công về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội, tổ chức dạy nghề, truyền nghề theo quy định của pháp luật.
8. Thành lập pháp nhân thuộc hội theo quy định của pháp luật.
9. Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển hội và lĩnh vực hội hoạt động. Được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của pháp luật và được cấp chứng chỉ hành nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
10. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của hội.
11. Được gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động.
12. Được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Được nhà nước hỗ trợ kinh phí đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước giao.
13. Cơ quan Trung ương hội có phạm vi hoạt động trong toàn quốc được gia nhập các tổ chức quốc tế tương ứng và ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế theo quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực hội hoạt động, cơ quan quyết định cho phép thành lập hội về việc gia nhập tổ chức quốc tế tương ứng, ký kết, thực hiện thoả thuận quốc tế.
Điều 24. Nghĩa vụ của hội
1. Chấp hành các quy định của pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động của hội và điều lệ hội. Không được lợi dụng hoạt động của hội để làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
2. Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó.
3. Trước khi tổ chức đại hội nhiệm kỳ ba mươi ngày, ban lãnh đạo hội phải có văn bản báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này và cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực hội hoạt động.
4. Việc lập văn phòng đại diện của hội ở địa phương khác phải xin phép Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt văn phòng đại diện và báo cáo bằng văn bản với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này.
5. Khi thay đổi Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký của hội, thay đổi trụ sở, sửa đổi, bổ sung điều lệ, hội phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này.
6. Việc lập các pháp nhân thuộc hội phải theo đúng quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này.
7. Hàng năm, hội phải báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động của hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này và cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực mà hội hoạt động, chậm nhất vào ngày 01 tháng 12 hàng năm.
8. Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật.
9. Lập và lưu giữ tại trụ sở hội danh sách hội viên, chi hội, văn phòng đại diện và các đơn vị trực thuộc hội, sổ sách, chứng từ về tài sản, tài chính của hội và văn phòng đại diện, biên bản các cuộc họp ban lãnh đạo hội.
10. Kinh phí thu được theo quy định tại khoản 11 và khoản 12 Điều 23 của Nghị định này phải dành cho hoạt động của hội theo quy định của điều lệ hội, không được chia cho hội viên.
11. Việc sử dụng kinh phí của hội phải chấp hành quy định của pháp luật. Hàng năm, hội phải báo cáo quyết toán tài chính theo quy định của Nhà nước gửi cơ quan tài chính cùng cấp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này về việc tiếp nhận, sử dụng nguồn tài trợ của cá nhân, tổ chức nước ngoài.
12. Xây dựng và ban hành quy tắc đạo đức trong hoạt động của hội.
Chương v
CHIA, TáCH; SáP NHậP; HợP NHấT; GIảI THể Và ĐổI TÊN HộI
Điều 25. Chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể và đổi tên hội
1. Tùy theo yêu cầu và khả năng hoạt động của hội, ban lãnh đạo hội đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này cho phép chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể và đổi tên hội. Việc chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể và đổi tên hội được thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Hội giải thể trong các trường hợp sau:
a) Tự giải thể;
b) Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này quyết định giải thể.
Điều 26. Hội tự giải thể
Hội tự giải thể trong các trường hợp sau:
1. Hết thời hạn hoạt động;
2. Theo đề nghị của trên 1/2 (một phần hai) tổng số hội viên chính thức;
3. Mục đích đã hoàn thành.
Điều 27. Trách nhiệm của ban lãnh đạo hội khi hội tự giải thể
1. Gửi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này các văn bản sau:
a) Đơn đề nghị giải thể hội;
b) Nghị quyết giải thể hội;
c) Bản kê tài sản, tài chính;
d) Dự kiến phương thức xử lý tài sản, tài chính và thời hạn thanh toán các khoản nợ.
2. Thông báo thời hạn thanh toán nợ (nếu có) cho các tổ chức và cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật trên năm số liên tiếp ở báo Trung ương đối với hội có phạm vi hoạt động trong cả nước và liên tỉnh; năm số liên tiếp ở báo địa phương đối với hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh.
Điều 28. Quyết định việc giải thể hội
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này quyết định giải thể hội sau mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thanh toán nợ và thanh lý tài sản, tài chính ghi trong thông báo của hội khi xin giải thể mà không có đơn khiếu nại.
Hội chấm dứt hoạt động kể từ ngày quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thể hội có hiệu lực.
Điều 29. Hội bị giải thể
Hội bị giải thể theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này trong các trường hợp sau:
1. Hội không hoạt động liên tục mười hai tháng;
2. Khi có nghị quyết của đại hội về việc hội tự giải thể mà ban lãnh đạo hội không chấp hành;
3. Hoạt động của hội vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Điều 30. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi hội bị giải thể
Khi hội bị giải thể, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 của Nghị định này:
1. Ra quyết định giải thể hội;
2. Thông báo quyết định giải thể hội trên ba số liên tiếp ở báo Trung ương đối với hội có phạm vi hoạt động cả nước và liên tỉnh; ba số liên tiếp ở báo địa phương đối với hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh.
Điều 31. Giải quyết tài sản, tài chính khi hội giải thể; hợp nhất; sáp nhập; chia, tách
1. Hội tự giải thể, bị giải thể, tài sản của hội được giải quyết như sau:
a) Tài sản, tài chính do các tổ chức trong và ngoài nước tài trợ; tài sản, tài chính do Nhà nước hỗ trợ mà hội đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài sản và thanh toán các khoản nợ thì số tài sản, số dư tài chính còn lại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định;
b) Đối với nguồn tài sản, tài chính tự có của hội, mà hội đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài sản và thanh toán các khoản nợ sau khi hội giải thể thì số tài sản, số dư tài chính còn lại do hội quyết định theo quy định của điều lệ hội.
2. Giải quyết tài sản, tài chính của hội khi hội hợp nhất:
a) Sau khi hợp nhất hội thành hội mới, các hội cũ chấm dứt tồn tại, hội mới được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng dịch vụ mà các hội cũ đang thực hiện;
b) Tài sản, tài chính của các hội hợp nhất không được phân chia, chuyển dịch mà được chuyển giao toàn bộ cho hội mới
3. Giải quyết tài sản, tài chính của hội khi sáp nhập:
a) Hội được sáp nhập vào hội khác, thì tài sản, tài chính của hội được sáp nhập chuyển giao cho hội sáp nhập;
b) Hội sáp nhập được hưởng các quyền, lợi ích hợp pháp về tài sản, tài chính hiện có, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán về tài sản, tài chính và các hợp đồng dịch vụ đang thực hiện của hội được sáp nhập.
4. Giải quyết tài sản, tài chính của hội khi chia, tách:
a) Sau khi chia hội, hội bị chia chấm dứt hoạt động, quyền, nghĩa vụ về tài sản, tài chính được chuyển giao cho hội mới theo quyết định chia hội;
b) Sau khi tách, các hội thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản, tài chính của mình phù hợp với mục đích hoạt động của hội đó.
Điều 32. Quyền khiếu nại
Trường hợp hội bị giải thể mà không đồng ý với quyết định giải thể, thì hội có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật. Trong thời gian chờ giải quyết khiếu nại, hội không được hoạt động.
Chương vi
MộT Số QUY ĐịNH áP DụNG ĐốI VớI CáC HộI Có TíNH CHấT ĐặC THù
Điều 33. Hội có tính chất đặc thù
Hội có tính chất đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quy định, thực hiện các quy định chung tại Nghị định này và quy định của Điều này, Điều 34, Điều 35 của Nghị định này.
Điều 34. Quyền, nghĩa vụ của hội có tính chất đặc thù
1. Quyền của hội có tính chất đặc thù:
a) Tham gia với các Bộ, cơ quan ngang Bộ xây dựng các cơ chế, chính sách liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về lĩnh vực hoạt động của hội;
b) Tham gia thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước, dịch vụ công thuộc lĩnh vực hoạt động của hội theo quy định của pháp luật;
c) Tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chính sách, chương trình, đề tài, dự án do cơ quan nhà nước yêu cầu về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
2. Nghĩa vụ của hội có tính chất đặc thù:
a) Tập hợp, nghiên cứu ý kiến, kiến nghị của các hội thành viên, hội viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hội để tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước;
b) Tập hợp các chuyên gia đầu ngành, các chuyên gia giỏi ở các hội thành viên và các tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ được giao, thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội;
c) Tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực hoạt động của hội theo quy định của pháp luật.
Điều 35. Chính sách của nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù
1. Các hội có tính chất đặc thù được cấp kinh phí hoạt động theo số biên chế được giao; bảo đảm kinh phí để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao và hỗ trợ cơ sở vật chất và phương tiện hoạt động; được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước, các dịch vụ công; thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội; thực hiện các chương trình, đề tài, dự án.
2. Việc cấp kinh phí hoạt động theo số biên chế được giao; bảo đảm kinh phí để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao và hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động; tư vấn, phản biện và giám định xã hội do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
3. Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm quy định, hướng dẫn, tạo điều kiện về cấp kinh phí hoạt động theo số biên chế được giao, hỗ trợ kinh phí hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước và hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động; ban hành cơ chế chính sách để hội có tính chất đặc thù tham gia thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước, các dịch vụ công; tư vấn, phản biện và giám định xã hội; thực hiện các chương trình, đề tài, dự án trong phạm vi chức năng quản lý nhà nước theo thẩm quyền.
Chương vii
QUảN Lý NHà NƯớC ĐốI VớI HộI
Điều 36. Quản lý nhà nước đối với hội
1. Xây dựng trình hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hội.
2. Hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương, các hội và công dân thi hành pháp luật về hội.
3. Cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ hội theo quy định tại Điều 14 của Nghị định này.
4. Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác quản lý hội.
5. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hội.
6. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội; kiểm tra việc thực hiện điều lệ hội đối với các hội.
7. Quản lý việc ký kết hợp tác quốc tế về hội theo quy định của pháp luật.
8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về hội.
9. Tổng hợp báo cáo tình hình tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Bộ Nội vụ giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hội trong phạm vi cả nước.
Điều 37. Nhiệm vụ quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với hội hoạt động thuộc lĩnh vực do Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý trong phạm vi cả nước
1. Tham gia bằng văn bản với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Điều 14 của Nghị định này về việc cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ hội; quyết định công nhận ban vận động thành lập hội theo thẩm quyền.
2. Ban hành cơ chế, chính sách để hội tham gia chương trình dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội, cung cấp dịch vụ công, đào tạo, cấp chứng chỉ hành nghề các hoạt động thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của Bộ, cơ quan ngang Bộ theo quy định của pháp luật; hướng dẫn, tạo điều kiện để hội tổ chức đại hội nhiệm kỳ; tổ chức lấy ý kiến của hội để hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể việc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho hội có hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước; việc quản lý, sử dụng tài sản, tài chính của hội; quản lý việc tiếp nhận, sử dụng các nguồn tài trợ của cá nhân, tổ chức nước ngoài cho hội.
4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hội thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của mình hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm theo quy định của pháp luật; kiến nghị việc giải thể hội.
Điều 38. Nhiệm vụ quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với hội hoạt động trong phạm vi tỉnh
1. Thực hiện thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị định này và quản lý nhà nước về tổ chức, hoạt động của hội.
2. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về hội.
3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hội.
4. Xem xét hỗ trợ đối với các hội có phạm vi hoạt động tại địa phương.
5. Xem xét và cho phép hội có phạm vi hoạt động tại địa phương nhận tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
6. Chỉ đạo các sở, ban, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trong việc quản lý hội.
7. Hàng năm, tổng hợp, báo cáo Bộ Nội vụ về tình hình tổ chức, hoạt động và quản lý hội ở địa phương.
Điều 39. Khen thưởng
1. Hội hoạt động có nhiều đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội thì được khen thưởng theo quy định của Nhà nước.
2. Hội viên có nhiều thành tích thì được khen thưởng theo quy định của hội và của Nhà nước.
Điều 40. Xử lý vi phạm
1. Người nào vi phạm quyền lập hội, lợi dụng danh nghĩa hội để hoạt động trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; trường hợp gây thiệt hại về vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cho phép thành lập hội trái với quy định của Nghị định này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; trường hợp gây thiệt hại về vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
3. Ban lãnh đạo hội, người đại diện hội cố tình kéo dài thời hạn đại hội nhiệm kỳ do điều lệ hội quy định hoặc không chấp hành quy định về nghĩa vụ của hội thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Chương viii
ĐIềU KHOảN THI HàNH
Điều 41. Hiệu lực thi hành
1. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2010.
2. Nghị định này thay thế Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Điều 42. Tổ chức thực hiện
Bộ trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định này.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.
tm. Chính phủ
thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng
Nguồn:
http: //legal. khaitri. vn/ Index. asp? Act= View& amp; Doc= 74655& amp; Pro=12 & Tree =51
Văn bản ở Tttđt. Hội Sử học
Tra cứu, đối chiếu ở Google
TXA. said
Vui lòng lưu ý giúp:
Xin quý vị chỉ gửi ĐƯỜNG DẪN (LINK) chứ đừng gửi cả văn bản như thế này, mặc dù đây chỉ là văn bản hành chính do Nhà nước ban hành.
Trân trọng,
TXA.
TXA. said
Đề mục “Thông tin: CÁC NHÀ VĂN CHƯƠNG KIẾN NGHỊ HỘI NÊN TỰ TÚC TỰ QUẢN” xin được khép lại ở đây.
TÂM NGUYỆN TỐT, PHÁP LUẬT MỞ, THÀNH CÔNG ĐẸP!
Vui lòng theo dõi sự kiện này trên báo chí cùng các điểm mạng khác.
Trân trọng,
TXA.